Cây lúa này được bà con trồng trên rẫy, có hạt màu nâu đen. Khi tách vỏ có gạo đen cườm, nấu lên giữ nguyên màu nhưng hương vị và độ mềm dẻo thì không có loại gạo nào sánh bằng.
Với đồng bào dân tộc thiểu số ở xã Trọng Hóa, họ tâm niệm rằng, nếp than như “hạt ngọc của trời” nên rất trân quý, chỉ dùng nấu cơm, ngâm rượu trong các dịp lễ, tết hay đón tiếp khách quý.
Để trồng lúa nếp than trên rẫy, người dân ở xã Trọng Hóa phải làm đất, gieo giống. Khi cây lúa mọc cao khoảng 20cm thì làm cỏ một lần rồi chờ đến thu hoạch.
Ông Hồ Hùng, ở bản Ông Tú nhớ lại: “Có những năm mưa thuận gió hòa, cây lúa nếp than phát triển rất tốt, cho năng suất khá cao. Nhiều vụ, bà con thu hoạch được 3-4 tạ lúa nếp than là chuyện bình thường”.
Hạt lúa nếp than được bà con chế biến thành những món cơm nếp hoặc gói bánh trong những dịp lễ, tết. Hạt gạo đặc biệt này còn là phương thuốc của người Khùa, Mày ở xã Trọng Hóa dùng chữa bệnh đường ruột, trẻ nhỏ mới ốm dậy hay phụ nữ sau khi sinh, làm rượu cần ủ men lá tiếp đãi khách quý”.
![]() Lúa nếp than xã Trọng Hóa (huyện Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình) chín, chắc mẩy. |
Tuy rất có giá trị trong đời sống, tâm linh của người Khùa, Mày nhưng việc trồng lúa nếp than thường cho năng suất thấp, bấp bênh vì bị hạn hán, thú rừng phá, lũ lụt, sạt lở đất, lúa trổ bông lúc mưa lớn...
Có những năm, bà con bị mất trắng nên cây lúa nếp than cũng bị mai một dần trong đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số trên dãy Trường Sơn.
![]() Niềm vui của người dân Trọng Hóa khi được mùa lúa nếp than. |
Để trồng được nếp than, UBND xã Trọng Hóa đã cử những cán bộ trẻ, có kiến thức chuyên sâu về lĩnh vực nông nghiệp đến xã Ngân Thủy (huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình), địa phương trồng nhiều lúa nếp than ở ruộng nước, để học tập và mua giống về trồng.
Ông Hồ Khiên, Trưởng bản Dộ-Tà Vờng, người có kinh nghiệm trồng lúa nước được chọn làm mô hình điểm. “Lúc mới trồng lúa nếp than tôi cũng lo lắm! Nhưng qua một thời gian trồng, chăm sóc, dưới sự hướng dẫn của cán bộ xã, cây lúa nếp than đã phát triển tốt, bộ rễ khỏe nên cây cứng và đẻ nhánh nhiều hơn.
Ngoài ra, tôi còn ủ phân xanh để bón cho lúa lúc gieo, đẻ nhánh nên cây lúa cho những bông nếp đầy, hạt chắc mẩy. Năng suất của lúa nếp than tuy không cao bằng các giống lúa khác nhưng giá bán cao gấp ba, gấp bốn lần lúa thường”, ông Hồ Khiên kể.
Vụ mùa đó, Hồ Khiên đã thu về gần 1,5 tạ thóc nếp than. Sau đó, ông sàng, phơi, giã lấy những hạt gạo đẹp nhất nấu lên mừng cơm mới, dâng lên trời đất, thần linh và mời dân bản đến chung vui. Trong lễ mừng cơm mới, ông còn làm cả bình rượu cần nếp than ủ với men lá rừng khiến bà con ai cũng ngợi khen. Thấy Hồ Khiên trồng thành công lúa nếp than, nhiều hộ dân trong xã cũng đến học tập, trồng theo.
Ông Cao Ngọc Điền, Trưởng phòng Dân tộc huyện Minh Hóa (tỉnh Quảng Bình) cho biết: “Hiện diện tích trồng lúa nước tại 4 xã biên giới của huyện khá lớn. Nếu mô hình trồng lúa nếp than ở xã Trọng Hóa phát huy hiệu quả, phòng sẽ tham mưu cho UBND huyện có chính sách để hỗ trợ cho bà con các xã biên giới mở rộng diện tích lúa nếp than, tạo thành hàng hóa phục cho thị trường”...