Đã 9 tháng kể từ khi quân đội Nga tiến hành cuộc chiến ở Ukraine. Những gì được dự định là một chiến dịch quân sự nhanh chóng nhằm lật đổ chính phủ Ukraine giờ đã biến thành một cuộc chiến kéo dài khiến hàng chục ngàn quân nhân và dân thường thiệt mạng.
Mặc dù cuộc chiến đang diễn ra trên lãnh thổ Ukraine, nơi chịu thiệt hại nặng nề nhất về người và của, nhưng Nga cũng phải đối mặt với những thách thức gay gắt đang ảnh hưởng đến nền kinh tế của nước này.
Liên minh châu Âu, Mỹ và các đồng minh của họ đã áp đặt một loạt biện pháp trừng phạt đối với Moscow, nhắm vào các quan chức chính phủ, xuất nhập khẩu, công nghiệp nặng và doanh thu từ dầu khí.
Nhiều chuyên gia cho rằng các biện pháp trừng phạt sẽ ảnh hưởng đáng kể đến nền kinh tế Nga và do đó buộc Điện Kremlin phải tạm dừng chiến tranh. Tuy nhiên, phân tích của tôi về ngân sách nhà nước Nga cho thấy những giả định như vậy không phản ánh thực tế. Moscow sẽ không gặp phải những hạn chế kinh tế đáng kể trong thời gian ngắn có thể buộc nước này phải thay đổi chính sách của mình.
Trừng phạt và lợi nhuận trời cho
Các biện pháp trừng phạt kinh tế do các nước phương Tây áp đặt đã dẫn đến sự suy giảm kinh tế ở Nga, nhưng có lẽ không lớn như nhiều người mong đợi. Theo chính phủ Nga, vào năm 2022, GDP sẽ giảm khoảng 2,9% và Ngân hàng Trung ương cho biết nó sẽ giảm từ 3 đến 3,5%, hoặc một nửa so với mức mà một số chuyên gia tính toán hồi tháng Ba.
Ngay sau khi lệnh trừng phạt được áp đặt, Nga phải đối mặt với tình trạng lạm phát gia tăng. Giá tiêu dùng đã tăng 10% trong 8 tuần sau khi cuộc chiến bắt đầu, nhưng đến tháng 5 thì chững lại.
Đồng rúp của Nga cũng giảm đáng kể trong tháng 2 và tháng 3 từ 75 rúp đổi một đô la xuống còn 135, đẩy kỳ vọng lạm phát gia tăng và gia tăng sự hoảng loạn trong dân chúng nói chung. Nhận thấy nguy cơ tiếp tục mất giá, chính quyền Nga đã áp đặt các hạn chế nghiêm ngặt về tài chính và tiền tệ đối với các giao dịch vãng lai và vốn. Đồng rúp cuối cùng đã giảm xuống còn 50 đổi 1 đô la và ổn định ở mức 60.
Các biện pháp trừng phạt của phương Tây, cùng với nhu cầu giảm, cũng dẫn đến việc giảm đáng kể lượng hàng nhập khẩu vào Nga (cụ thể, giảm lần lượt 23% và 14% trong quý 2 và quý 3 năm 2022). Điều này dẫn đến việc giảm 20% nguồn thu ngân sách liên quan đến nhập khẩu – bao gồm cả thuế và thuế hải quan – trong 10 tháng đầu năm.
Cuộc đối đầu với phương Tây trong cuộc chiến ở Ukraine cũng ảnh hưởng đến xuất khẩu hydrocarbon của Nga, năm 2021 chiếm gần 50% tổng kim ngạch xuất khẩu và 45% thu ngân sách liên bang. Ngay cả trước cuộc chiến bắt đầu, Gazprom đã bắt đầu giảm nguồn cung cấp khí đốt cho châu Âu vào năm 2021, dẫn đến giá tăng đột biến.
Vào tháng 4, Tổng thống Vladimir Putin đã ký một sắc lệnh yêu cầu các khoản thanh toán cho khí đốt của Nga bởi các công ty châu Âu chỉ được thực hiện bằng đồng rúp. Một số quốc gia châu Âu đã từ chối tuân thủ và việc cung cấp khí đốt cho họ đã bị dừng lại. Vào tháng 4 và tháng 5, dòng khí đốt của Nga qua hệ thống đường ống Ukraine và đường ống Yamal-Châu Âu qua Ba Lan cũng bị gián đoạn. Sau đó, vụ phá hoại đường ống Nord Stream đã cắt đứt khí đốt đến Đức vào tháng 9.
Do đó, đến giữa tháng 11, xuất khẩu của Gazprom sang châu Âu (bao gồm cả Thổ Nhĩ Kỳ) đã giảm 43%. Công ty – nhà xuất khẩu khí đốt lớn nhất của Nga – đã cắt giảm sản lượng gần 20%.
Nhưng điều này không dẫn đến giảm doanh thu; ngược lại, Gazprom và ngân sách liên bang đã nhận được một khoản lợi nhuận bất ngờ do giá khí đốt tăng mạnh. Vào tháng 8, ở đỉnh điểm của xu hướng này, giá gas đã tăng 460% so với cùng kỳ năm ngoái.
Lợi nhuận của Gazprom tăng mạnh đến mức chính phủ đã áp dụng thuế tạm thời đối với doanh thu của công ty từ tháng 9 đến tháng 11, mang lại 1,248 nghìn tỷ rúp (20 tỷ USD) vào kho bạc nhà nước.
Tình hình trong lĩnh vực dầu mỏ cũng tương tự. Kế hoạch của EU đưa ra các hạn chế đối với việc nhập khẩu dầu và các sản phẩm dầu mỏ của Nga đã buộc các công ty Nga phải tìm kiếm người tiêu dùng mới và đồng ý giảm giá đáng kể - cao tới 25%.
Tuy nhiên, do giá dầu cao, đạt 120 đô la vào mùa xuân và mùa hè, giá dầu của Nga vẫn cao hơn so với năm 2021, ngay cả khi đã giảm giá.
Nhìn chung, trong 10 tháng đầu năm 2022, thu ngân sách từ sản xuất và xuất khẩu hydrocarbon của Nga tăng 34% so với năm 2021.
Chi phí chiến tranh
Trong khi giá hydrocarbon cao dẫn đến doanh thu cao, ngân sách Nga cũng chứng kiến sự gia tăng mạnh trong chi tiêu quân sự trong năm nay.
Vào giữa tháng 9, Bộ Tài chính báo cáo rằng vào cuối năm nay, chi tiêu quốc phòng sẽ tăng 31% từ 3,573 nghìn tỷ lên 4,679 nghìn tỷ rúp (57 tỷ USD lên 74 tỷ USD). Điều này bao gồm 600 đến 700 tỷ rúp bổ sung (10 đến 11 tỷ đô la) mà Bộ Quốc phòng đang chi cho việc mua sắm và sửa chữa vũ khí trong năm nay.
Một hạng mục khác trong ngân sách liên bang có mức tăng bất thường vào năm 2022 là "Các vấn đề chung của quốc gia"; nó đã tăng 50% lên 2,629 nghìn tỷ rúp (42 tỷ USD). Chi phí dưới tiêu đề này thường đến từ các hoạt động hành chính của tất cả các ngành của chính phủ. Nếu người ta cho rằng số tiền dư thừa trong mục này có liên quan đến chiến tranh, thì đó là khoản chi thêm 869 tỷ rúp (13,8 tỷ USD) cho chi tiêu quốc phòng.
Chi tiêu liên bang cho bộ máy an ninh cũng đã tăng hơn 19% so với năm 2021 lên 2,788 nghìn tỷ rúp (44,5 tỷ USD). Một số khoản tiền bổ sung này được phân bổ cho Lực lượng Vệ binh Quốc gia Nga có lực lượng tích cực tham gia hỗ lực lượng Nga ở Ukraine.
Ngay sau khi ngân sách dự kiến được công bố, Điện Kremlin đã thông báo "huy động một phần". Do đó, khoảng 318.000 người đã phải nhập ngũ, điều này sẽ đòi hỏi phải tăng thêm chi tiêu quốc phòng, ít nhất 372 tỷ rúp (6 tỷ USD) để trả lương cho họ và các chi phí khác cho đến cuối năm.
Ngân sách năm 2023 do chính phủ soạn thảo và trình quốc hội trước khi có sắc lệnh huy động của tổng thống, do đó sẽ không ngạc nhiên nếu chi tiêu quân sự thực tế cho cả hai năm 2022 và 2023 cao hơn mức công bố chính thức. Trong mọi trường hợp, ngay cả với những con số này, chi tiêu quân sự của Nga vào năm 2022 sẽ vượt quá 5% GDP, đây là điều chưa từng có.
Tuy nhiên, thu nhập trời cho từ dầu mỏ và khí đốt đang bù đắp ở một mức độ nhất định chi tiêu liên quan đến chiến tranh. Như vậy, Nga sẽ kết thúc năm nay với mức thâm hụt 0,9% GDP hay khoảng 15 tỷ USD.
Do thị trường tài trợ nợ nước ngoài đã đóng cửa đối với Nga sau khi các lệnh trừng phạt của phương Tây được áp dụng và khả năng vay trong nước bị hạn chế, nên thâm hụt sẽ được tài trợ, chủ yếu, từ dự trữ tích lũy, như Thủ tướng Nga Mikhail Mishustin đã tuyên bố.
Vào tháng 10, quỹ đã nắm giữ khoảng 10,7 nghìn tỷ rúp (171 tỷ USD); phần thanh khoản của nó, có thể được sử dụng cho các khoản thanh toán như vậy, lên tới 7,5 nghìn tỷ rúp (120 tỷ USD) – quá đủ để thanh toán cho khoản thâm hụt năm 2022.
Một năm 2023 đầy thử thách
Trong ngân sách năm 2023, chính phủ đã tăng 6,5% chi tiêu quốc phòng, nhằm bù đắp cho lạm phát. Điều này giả định rằng chi phí chiến tranh sẽ không tăng trong năm tới.
Tôi có một số nghi ngờ về giả định này. Chi phí cho quân đội được huy động bổ sung không được đưa vào ngân sách năm 2022, cùng với việc có thể chậm trễ trong việc thanh toán tiền bồi thường cho các gia đình thương vong trong chiến tranh, có thể sẽ buộc chính phủ phải sửa đổi con số này.
Hơn nữa, Bộ trưởng Quốc phòng Sergey Shoigu đã tuyên bố tăng 50% mua sắm quân sự cho năm tới và ông đã làm như vậy sau khi Duma Quốc gia thông qua ngân sách năm 2023. Tôi không thấy khoảng trống cho điều này trong các số liệu ngân sách.
Doanh thu, giống như chi tiêu, cũng không thể dễ dàng đoán trước được cho năm 2023. Lợi nhuận bất ngờ từ hydrocarbon đã truyền cảm hứng lạc quan cho Điện Kremlin, điều này được phản ánh trong các ước tính mà chính phủ đưa ra về khả năng phục hồi tăng trưởng kinh tế trong quý đầu tiên của năm tới.
Nhiều chuyên gia không chia sẻ sự lạc quan của chính phủ. Ngay cả dự báo chính thức của Ngân hàng Trung ương Nga cũng cho thấy rằng tăng trưởng kinh tế của Nga sẽ tiếp tục vào nửa cuối năm 2023.
Một ẩn số quan trọng trong ngân sách năm tới cũng là nguồn thu từ hydrocarbon, cụ thể là dầu mỏ. EU đã ngừng nhập khẩu dầu thô của Nga vào ngày 5 tháng 12 và sẽ ngừng mua các sản phẩm dầu của Nga vào ngày 5 tháng 2. Liên minh, cùng với G7 và Australia, cũng đang áp đặt mức giá trần 60 USD đối với dầu của Nga.
Do đó, Nga khó có thể tăng xuất khẩu dầu trong năm tới để đạt được mức trước chiến tranh. Giá dầu xuất khẩu trung bình của Nga năm 2021 là 69 USD/thùng. Tỷ giá hối đoái giữa đồng rúp và đô la hiện tại cao hơn 15% so với mức trung bình năm 2021, có khả năng sẽ tiếp tục trong năm mới. Những yếu tố này có thể làm giảm thu ngân sách năm 2023 từ sản xuất và xuất khẩu hydrocarbon từ 15 đến 20 phần trăm (22 tỷ đô la đến 29 tỷ đô la) so với mức của năm 2021.
Để đối phó với sự sụt giảm doanh thu dự kiến, chính phủ đã tuyên bố tăng thuế đối với các công ty dầu khí cũng như các nhà sản xuất kim loại và than đá. Những điều này có thể mang lại đủ doanh thu để bù đắp tới 75% doanh thu bị giảm.
Như vậy, nguy cơ không đạt kế hoạch thu năm 2023 vẫn còn, nhưng sẽ hạn chế ở mức 5-6% tổng thu ngân sách, theo ước tính của tôi.
Vì thế, có thể nói Nga vẫn đủ tiền cho chiến tranh.
Mặc dù ngân sách được hoạch định trong điều kiện không chắc chắn cao nhưng không thể gọi là không ổn định. Trong những trường hợp khác nhau, doanh thu của nó có thể cao hơn hoặc thấp hơn mức kế hoạch. Tuy nhiên, quy mô của sự sai lệch này, theo đánh giá của tôi, không vượt quá 1% GDP (17,2 tỷ đô la) theo cả hai hướng.
Do đó, ngay cả khi doanh thu thấp hơn, thâm hụt ngân sách sẽ không vượt quá 3% GDP (52 tỷ đô la), có thể được tài trợ hoàn toàn từ dự trữ (hiện ở mức 120 tỷ đô la).
Đồng thời, các nước phương Tây dường như không có cơ hội hay mong muốn tăng cường áp lực trừng phạt đối với Nga. Điều này có nghĩa là ngân sách Nga sẽ không phải đối mặt với bất kỳ cú sốc nào liên quan đến lệnh trừng phạt vào năm 2023.
Với tất cả những điều này, tôi không thấy trước bất kỳ hạn chế tài chính lớn nào có thể buộc Điện Kremlin thay đổi hoàn toàn kế hoạch quân sự ở Ukraine.