Cổ Lương - ngôi đền lưu giữ rất nhiều nét văn hóa cổ xưa độc đáo của dân tộc
Nằm trong ngõ nhỏ cách phố Nguyễn Siêu (quận Hoàn Kiếm, Hà Nội) khoảng hơn 20 bước chân, đền Cổ Lương được xây dựng từ đầu thế kỷ XVIII nổi tiếng là không gian lưu giữ nhiều giá trị văn hóa cổ xưa của dân tộc.
Kiến trúc đền Cổ Lương tạo ấn tượng với cổng được lợp bằng ngói ống, mái cong. Hai bên có đôi câu đối chữ Hán và phù điêu tượng vị thần canh giữ được đắp khá giống nhau, quay mặt về hướng nam, tay cầm đại đao. Phía trên cánh cổng vuông, có dòng chữ đắp nổi "Cổ Lương Linh Từ".
Đi vào bên trong, sân đền nhỏ bé, hai bên là nhà tả, hữu mạc và tượng một con cá sấu đang đội bát hương trên bàn thờ lộ thiên ngay trước cây bàng cổ thụ. Ngay gần đó là lò thiêu vàng mã. Đi qua khu vực này sẽ đến được khu đền chính.
Đền có quy mô khá nhỏ, gồm 3 gian tiền tế và một gian hậu cung nằm trong cùng. Kiến trúc điện đền được xây theo kiểu đơn giản tận dụng tối đa không gian. Có thể thấy được những đồ trang trí cùng họa tiết chạm khắc trong không gian thờ cúng đều thuộc kiến trúc nghệ thuật cuối thời nhà Nguyễn.
Sau khi dẫn chúng tôi tham quan một vòng, Bà Nguyễn Thị Thu Hiền (61 tuổi) - Thủ nhang đền Cổ Lương cho biết: "Đền Cổ Lương được xây dựng trên đất thôn Cổ Lương xưa, vốn được lập ra để thờ hai vị chính thần là thần Phổ Tế và thần Nam hải. Tuy nhiên, đến thời Nguyễn, người dân rước tượng công chúa Liễu Hạnh về thờ và tôn làm Thành hoàng thì trong đền bắt đầu xây thêm điện Mẫu".
"Mẫu Liễu hay Mẫu Đệ Nhất Thượng Thiên là vị thánh mẫu thường ngồi chính giữa trong Tam Tòa Thánh Mẫu. Mẫu có địa vị cao nhất trong Tứ Phủ và được thờ phụng ở hầu hết các đền phủ", bà Hiền cho biết biết thêm.
Huyền thoại về tiên Liễu Hạnh giáng trần hai lần như một cô gái xinh đẹp và người vợ nết na rồi hiển linh đã được lưu truyền rộng rãi ở nhiều vùng quê trong nước, đặc biệt ở vùng Bắc bộ. Mặc dù sự tích mới chỉ xuất hiện vào thời Lê Trịnh, song bà chúa Liễu đã sớm được dân gian tôn làm một trong "Tứ bất tử" của thần nhân đất Việt.
Một mặt Liễu Hạnh tượng trưng cho tinh thần phóng túng tự do; mặt khác, trong tâm thức dân gian, bà chúa ban phúc cho mọi người. Vua Lê Huyền Tông từng sắc phong bà là "Liễu Hạnh công chúa", đến thời Nguyễn lại suy tôn bà làm "Mẫu nghi thiên hạ".
Không chỉ được biết đến với giai thoại về Mẫu Liễu, đền Cổ Lương còn là nơi lưu giữ nhiều di vật có giá trị về mặt lịch sử và văn hóa nghệ thuật. Đáng chú ý là 4 bia đá dựng từ thời Nguyễn và một quả chuông đồng lớn được đúc vào năm thứ ba của triều đại Minh Mạng (1843) với bài ký tên "Cổ Lương Chung Ký". Bài kí hiệu này khắc trên chuông nhằm ghi nhận công đức của các con hương và đệ tử tu sửa đền và đúc chuông.
Ngoài ra, đền Cổ Lương còn lưu giữ 2 tấm sắc phong, 4 bức hoành phi cùng 6 câu đối ca Mẫu Liễu Hạnh. Hai bản sắc phong được lưu giữ để tôn vinh Mẫu Liễu Hạnh bao gồm niên đại Duy Tân năm thứ 5 (8-6-1911) và ngày 25 tháng 7 âm lịch năm Khải Định thứ 9 (1924).
Đặc biệt, trong đền đang bảo quản 2 bức cuốn thư gỗ, 3 ngai thờ, 18 pho tượng và một số đồ thờ quý hiếm khác như bộ bát bửu, lọ hoa cây nến, bát hương đồng,... đây đều là hiện vật quý hiếm của Thủ đô nói riêng và cả nước nói chung. Thực tế này cho thấy, các thế hệ người dân trông coi đền luôn tôn trọng, đảm bảo sự tồn tại của các di vật. Từ đó góp phần củng cố thêm niềm tin vào những giá trị truyền thống và cùng xác định trách nhiệm bảo tồn, gìn giữ cho muôn đời sau.
Có thể nói đền Cổ Lương là địa điểm gắn liền với văn hóa tâm linh, trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống tín ngưỡng của người dân. Giống như tục lệ của nhiều ngôi đền khác, những ngày lễ tiết lớn đặc biệt là ngày đầu xuân năm mới là dịp người dân tập trung dâng lễ, khấn vái để thể hiện lòng thành kính, lòng tin với các vị thần linh, cầu mong một cuộc sống bình yên, tốt đẹp.
Hiện nay, Đền Cổ Lương không chỉ là nơi thờ tự, mà còn là điểm tham quan du lịch và là biểu tượng văn hóa của phố cổ Hà Nội. Đình thu hút du khách từ khắp nơi đến để chiêm ngưỡng kiến trúc cũng như để tìm hiểu thêm về lịch sử và văn hóa của Việt Nam.