Ba bà Hoàng Thái hậu, Thần phi nhà Hậu Lê tuy xuất thân trong những gia đình nơi thôn dã, nhưng đều là những tuyệt sắc giai nhân, chân quê mà quý phái, sắc sảo mà hiền thục.
Khi còn tại thế, các bà đã đóng góp cho sự nghiệp của chồng, chăm lo cho tương lai của các con. Khi mất, các bà trở thành thần linh phù hộ cho dân, cho nước.
Sách “Thanh Hóa chư thần lục” ghi lại: Một lần Lê Lợi sang sông, trời đã nhập nhoạng tối, sương thu như một dải màn trắng mỏng, giăng đầy trên mặt sông bãi mía.
Thấp thoáng đầu nương dâu, một người con gái đang thoăn thoắt đôi tay hái những lá dâu xanh cho vào lẵng, lại gần quả là một thục nữ giai nhân, chân quê mà quý phái, sắc sảo mà hiền thục, lời nói nhẹ nhàng, thanh thoát như tơ.
Lê Lợi hỏi ra mới biết người con gái ấy húy là Ngọc Trần, người làng Quần Lai, xã Đa Mỹ, huyện Lôi Dương (nay là xã Thọ Diên, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa).
Lê Lợi bèn đặt lễ hỏi làm vợ. Sau khi về làm thiếp của Lê Lợi, bà sớm hôm gánh vác việc thu xếp trang trại, coi sóc sản xuất, cây trồng. Khi vua tự xưng là Bình Định vương dựng cờ khởi nghĩa, bà lặn lội theo hầu, trải qua nhiều gian lao nguy hiểm, đói khát, phải ăn củ nâu, măng rừng mà dạ vẫn kiên trinh giữ đạo làm tôi, làm vợ.
Trong những năm tháng chiến đấu ác liệt chống quân Minh xâm lược, ở hậu phương, bà Phạm Thị Ngọc Trần không chỉ làm tốt đạo làm vợ, bà còn có công lớn trong việc củng cố quân lương, giúp nghĩa quân ngoài chiến trường thêm vững lòng tin, bền ý chí để đánh giặc.
Để có lương thực cung cấp cho nghĩa quân, bà vận động Nhân dân trong vùng tăng gia sản xuất, vận động phường đánh cá Đa Mỹ dùng thuyền ngược dòng sông Chu tiếp tế lương thực cho nghĩa quân. Vì vậy, đã góp phần khắc phục mọi khó khăn, thiếu thốn về quân lương, thúc đẩy sự nghiệp chống quân Minh, sớm giải phóng đất nước.
Năm Ất Tỵ (1425), Lê Lợi vây đánh thành Nghệ An, lúc nghĩa quân chuẩn bị vượt sông, trời đang nắng bỗng nổi giông tố mù mịt, sông nổi sóng ba đào, quân lính, ngựa voi không tài nào qua sông.
Đêm ấy, nhà vua trằn trọc không ngủ được, gần sáng thì nằm mộng thấy có một vị thần đến bảo rằng: “Tướng quân cho tôi một người thiếp, tôi sẽ xin phù hộ tướng quân dẹp được giặc, làm nên nghiệp đế”. Hôm sau, vua gọi các bà vợ đến hỏi: “Có ai chịu làm vợ thần không? Sau này khi ta lấy được nước sẽ lập con người làm Thiên tử”.
Các bà phi không ai nói gì, chỉ có bà Ngọc Trần khảng khái quỳ thưa: “Nếu Minh Công giữ lời hứa thì thiếp xin nguyện xả thân vì nước, sau này làm nên nghiệp lớn chớ phụ con thiếp”. Nhà vua khen ngợi và thương cảm nhận theo lời hẹn đó.
Vua bảo: “Bà ấy đúng là chúa cả trăm vị thần của nước ta, không ai dám trái”, bèn sai người rước quan tài về táng ở Thanh Hóa. Sau khi đuổi giặc Minh ra khỏi đất nước, Bình Định vương lên ngôi Hoàng đế, lập Lê Nguyên Long làm Thái tử cho nối ngôi. Khi Lê Thái tổ mất, Lê Nguyên Long lên ngôi vua (tức Vua Lê Thái tông) và truy tôn mẹ là Cung từ Quốc Thái Mẫu.
Thần phi họ Trịnh, húy là Ngọc Lữ - một trang nữ lưu hương tuyệt sắc giai nhân. Theo sách Đại Việt thông sử của Lê Quý Đôn, Thần phi Trịnh Thị Ngọc Lữ người trang Bái Đô, huyện Lôi Dương, nay là huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa.
Bà Trịnh Thị Ngọc Lữ đã có 10 năm theo gót Lê Lợi, lặn lội sông núi cùng chồng nằm gai, nếm mật, chịu đựng gian nan để hoàn thành cơ nghiệp.
Năm 1427 cuộc Khởi nghĩa Lam Sơn toàn thắng. Con trai bà là Tư Tề được lập làm quốc vương “tạm coi việc nước”, bà Trịnh Thị Ngọc Lữ được phong chức Quốc Thái Mẫu. Năm 1433 Quốc vương Tư Tề bị giáng xuống làm Quận vương, bà Trịnh Thị Ngọc Lữ bị giáng theo là Quận Mẫu.
Tuy Quốc vương Tư Tề một người khí chất cứng rắn, từng trải chiến trận, lập công nơi chiến trường, lại cùng Lưu Nhân Chú vào ra hang hùm, ổ sói khiến tướng giặc Vương Thông thành Đông Quan phải khuất phục.
Nhưng vì tội Quận vương Tư Tề quá lớn “mắc bệnh điên cuồng” không hợp ý vua. Năm 1438, Vua Lê Thái tông phế truất Quận vương Tư Tề xuống làm thứ dân, bà Trịnh Thị Ngọc Lữ chỉ còn chức Thần phi.
Trịnh Thị Ngọc Lữ là một phụ nữ tốt nết, tuy trong hoàn cảnh gây nên biến cố bất thường, nhưng bà vẫn giữ tư cách đạo đức, luôn giữ bổn phận an bề gia đạo để đảm bảo sự yên lành trong nội cung.
Bà không được nhận là Hoàng hậu, cũng bị mất ngôi Thái hậu nhưng bà vẫn xứng đáng là hoàng hậu và đế hậu của dân tộc.
Chính sử không ghi nhưng Ngọc phả và cá nhân nhà sử học đã hợp với nhân tâm khi dùng thuật ngữ “hoàng hậu, đế hậu” để nói về Trịnh Thị Ngọc Lữ, bà không phải là hoàng hậu theo quy định của vương triều nhưng là hoàng hậu của lòng dân.
Có thể nói, trong cuộc đời Lê Lợi, bên cạnh sự nghiệp vẻ vang là lãnh đạo Nhân dân tiến hành cuộc kháng chiến chống quân Minh giành thắng lợi, giải phóng dân tộc mở ra kỷ nguyên Đại Việt cho đất nước ở thế kỷ XV, còn có sự đóng góp của những người thân trong gia đình ông, cùng nếm mật nằm gai, cùng gắng chí sức, phát huy tài năng để góp phần làm nên sự nghiệp lớn, trong đó có Thần phi Trịnh Thị Ngọc Lữ.
Quang thục Hoàng Thái hậu sinh năm Canh Tý 1420, họ Ngô, húy là Dao, người xã Động Bàng, nay là xã Định Hòa (huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa).
Di tích lịch sử quốc gia Điện Thừa Hoa và Từ đường Phúc Quang (xã Định Hòa, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa) – nơi thờ Quang thục Hoàng Thái hậu Ngô Thị Ngọc Dao. Bà là vợ vua Lê Thái Tông, mẹ vua Lê Thánh Tông.
Bà là vợ Vua Lê Thái tông, mẹ Vua Lê Thánh tông và là bà nội Vua Lê Hiến tông. Tương truyền, khi bà chưa sinh, mẫu thân của bà nằm mộng thấy tiên từ cung trăng xuống rồi vào trong nhà. Lúc tỉnh dậy sinh ra Ngô Thị Ngọc Dao.
Khi bà được sinh ra, trong nhà có mùi thơm lạ, ngoài sân có tiếng nhạc âm luật khác thường như nhạc tiên. Đến khi lớn lên, bà thường theo người nhà đi làm việc đồng ruộng, thường có 5 sắc mây che trên đầu.
Có người biết vậy nên nói: “Gái ấy đáng là mẹ thiên hạ”. Sau khi vào cung, bà sinh hạ Hoàng tử Lê Tư Thành. Sau nhiều loạn lạc trong triều, Hoàng tử Lê Tư Thành được các công thần Nguyễn Xí, Đinh Liệt tôn lên làm vua (tức Vua Lê Thánh tông), bà được tôn làm Hoàng Thái hậu.
Vua Lê Thánh tông đã cho xây Điện Thừa Hoa tại quê ngoại để bái yết tổ tiên bên ngoại. Năm 1496, sau khi bà cùng Vua Lê Thánh tông bái yết Sơn Lăng (Lam Kinh) trở về quê ngoại nghỉ ngơi tại Điện Thừa Hoa thì bà ngã bệnh, qua đời ở tuổi 76. Bà được đưa về an táng tại Sơn Lăng (Lam Kinh) và được suy tôn là Quang thục Hoàng Thái hậu.
Trong các tài liệu của Ngô tộc Việt Nam có lưu lại công đức của bà với lòng tự hào, cảm phục: Tuy ở ngôi cao nhưng Quang thục Hoàng Thái hậu Ngô Thị Ngọc Dao luôn cần kiệm, không bao giờ sống xa hoa, cũng không bao giờ cậy thế để tham dự việc triều chính.
Bà luôn cẩn trọng trong các nghi lễ, nghiêm trang cung kính nơi tông miếu. Mỗi khi các nơi đưa của ngon, vật lạ đến dâng tiến, bà đều lệnh phải dâng cúng trước rồi mới tiến cho vua dùng. Tuy nghiêm khắc nơi triều chính song bà lại là người giàu nhân đức, thường hay thương xót, chu cấp cho người nghèo.
Từ con cháu đến kẻ hầu người hạ ai cũng cảm nhận được tình thương yêu của bà. Vì vậy ở trong cung, mọi người đều tôn gọi bà là “Phật sống”.
Quang thục Hoàng Thái hậu Ngô Thị Ngọc Dao còn được các đại thần đương triều đánh giá là người có công lớn với xã tắc, xứng đáng là bậc mẫu nghi thiên hạ.
Đặc biệt, bà là người có ảnh hưởng lớn đến cuộc đời và sự nghiệp của Vua Lê Thánh tông, nuôi dạy đức vua từ nhỏ đến lúc trưởng thành, luôn kề vai sát cánh cùng đức vua trong quá trình cai trị đất nước, giáo hóa Nhân dân, góp phần đưa nước ta bước vào giai đoạn phát triển rực rỡ cực thịnh.
Cảm phục công lao to lớn ấy, khi bà qua đời, quần thần đã tỏ lòng tiếc thương bằng việc soạn tấm bia Khôn Nguyên Chí Đức ghi lại cuộc đời, công đức của bà. Tấm bia là bảo vật quốc gia hiện được lưu giữ tại Khu Di tích lịch sử quốc gia đặc biệt Lam Kinh (huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa) và đã góp phần tạo nên giá trị đặc biệt của nơi này.