Mỗi năm một lần, cứ độ tháng 10 âm lịch, gió từ sông lại thổi vào nhà lồng lộng, báo hiệu mùa gió chướng đã về, không mấy chốc nữa thì đến Tết. Nghĩa là anh chị Hai của tôi đang vào vụ tất bật đón cá ra sông, rồi ít bữa sau khi so đũa đã trổ hết bông, anh chị sẽ về nhà cùng với mớ cá khô ngon nhất, chia cho bà con dòng họ dành ăn Tết.
Riêng tôi, ắt sẽ được kể cho nghe bao chuyện hay ho. Ví như năm đầu tiên làm rể xứ Tha La biên giới, về nhà sau mùa nước nổi, anh Hai khoe chiếc khâu vàng 18 k trên tay. Đó thành quả anh chị có được nhờ "bà cậu" đãi, cho trúng mấy luồng cá linh, chở 3-4 xuồng không hết…
Chị Hai quê ở tận đầu nguồn Cửu Long, nhà sàn cao lút đầu người đứng chân bên bờ kinh Vĩnh Tế. Đứng phía sau nhà phóng tầm mắt qua cánh đồng nước là thấy ngọn núi Tà Lơn của nước bạn Campuchia nhập nhòa trong khói tỏa. Cứ tháng 7, khi con nước nhảy khỏi bờ, nước từ sông Hậu đổ vào kinh Vĩnh Tế rồi len lỏi qua các con rạch mà tràn vào khỏa lấp mặt cánh đồng, có nơi nước như biển, trải dài "mút chỉ cà tha". Những cá, tôm hồi nào còn nhỏ xíu như bọt sông, giờ theo dòng nước vào đồng, ăn côn trùng, bùn đất, sinh sôi và lớn nhanh như thổi.
Theo nghề quê vợ, cứ ăn Tết Đoan Ngọ vừa xong, anh Hai lại lục đục lôi chiếc xuồng cui ra trét dầu chai, dặm vá lại những chỗ hư, mục. Trong lúc ấy, chị cũng sắm sửa thêm mớ lưới, chuẩn bị khô mắm, cà ràng đồ đạc xuống xuồng. Mồng 1 tháng 7, anh chị từ giã tôi, quá giang ghe lớn, kéo chiếc xuồng theo về những cánh đồng nước lớn. Có khi anh chị Hai qua vùng Đồng Tháp Mười, có khi lại sang tứ giác Long Xuyên nhưng thường nhất vẫn là vùng đầu nguồn Tha La xứ chị.
Anh Hai đi từ tháng 7, đến tận cuối tháng 10 khi mùa cá ra sông đã dứt thì mới về. Lần nào về, anh cũng đem nhiều khô mắm, những tấm lưới rách toang, chiếc xuồng cũng có mấy chỗ rò nước đắp tạm lại nhưng thường trực nhất là những câu chuyện về mùa nước nổi ở vùng đất thượng nguồn. Những câu chuyện của anh Hai bao giờ cũng đem lại cho tôi nhiều cảm xúc, như anh chính là dòng sông mang phù sa đắp bồi tâm hồn thơ bé của tôi lớn lên theo năm tháng.
Năm tôi 15 tuổi, ngay dịp nghỉ hè, ba má cho quá giang ghe gạo lên thăm anh chị Hai. Tôi năn nỉ anh Hai cho tôi theo lên đồng một bữa, thay vì ở nhà ba má của chị chơi với mấy đứa nhỏ ngồi câu cá linh rìa bên hông nhà sàn. Năn nỉ mấy ngày anh mới cho nhưng vẫn dặn rằng "cực lắm". Tôi ham chơi nhiều nên không lường trước được việc cực ra sao.
Gỡ lưới cá linh trong mùa nước nổi
Sáng sớm sau buổi "chợ Âm phủ" - nhóm từ hồi trời còn nhá nhem tối ở đập Tha La, chị Hai về nhà nghỉ lưng. Đến xế trưa, chị lại lục đục dặm vá lại lưới; mấy cái lợp, đăng cũng được chuẩn bị chất lên xuồng.
Trong cái góc nhỏ của xuồng được che bằng hai mái lá, tôi ngồi nhìn nồi cơm còn nóng hổi với con khô cá lóc mới nướng xong. Gió đồng lồng lộng, chẳng mấy chốc nồi cơm đã nguội đi. Trên đồng hiện ra khung cảnh leo nheo đầy những ánh đèn. Đó là đèn lưới của bạn câu, đèn của những chiếc xuồng đậu lại thành một xóm như nhà bè.
Anh Hai thả những tấm lưới ra đồng nước. Đăng, lợp cũng được đặt vào những chỗ ngay luồng cá. Anh nói, nghề này không phải ai làm cũng được, thấy dễ vậy mà khó. Có xuồng có lưới nhưng phải có kinh nghiệm, đặt đúng chỗ cá đi thì mới trúng cá được. Không sách vở nào dạy, chỉ có dân nghề tự đúc kết kinh nghiệm, chia sẻ cho nhau. Họ không giấu giếm, cũng không xí phần dành khu vực làm ăn. Họ hào sảng, gặp nhau nói cười vui vẻ.
Đêm đó, sau khi những tấm lưới đã được thả xong, mấy chiếc xuồng túm lại cùng nhau giữa đồng nước nổi. Nướng con chuột leo cây vừa bắt được hồi chiều và mấy con cá lóc cũng kho quéo trong nồi đất, họ rủ nhau nhâm nhi vài ly rượu thuốc cho ấm bụng, tôi thì được một bữa ăn ngon lành. Có lẽ mãi đến sau này, đó là bữa ăn trong không gian đặc biệt và ngon nhất mà tôi từng được thưởng thức trong đời.
Tôi nằm chập chờn một giấc đến quá khuya thì anh Hai lục đục xuồng ra bãi cá. Tôi thức soi đèn cho anh gỡ lưới. Những con cá dính lưới hiện ra, vảy lấp lánh trong ánh đèn bắt mắt. Thấy cá, tự dưng tôi mừng, gỡ lưới mải miết quên cả trời cũng vừa sắp sáng. Đó là lúc mớ lưới đã gỡ xong, anh Hai và dân vạn chài cho xuồng về "chợ Âm phủ". Chị Hai và những người đàn bà có chồng đánh lưới đêm qua đã đón sẵn. Họ cũng mang nỗi buồn vui theo số cá có được.
Bán cá xong, nắng sắp nở ở bờ đông, chợ cũng dần tan theo những chuyến xe thồ cá hai bên hông bằng những thùng nhựa lớn. Tôi mang về cho thằng cháu một con tôm càng cỡ nửa cùm tay, đang bắn càng dưới lòng xuồng xoi xói. Đứa nhỏ nhìn qua rồi cười: "Con ăn tôm càng hoài, mắc ngán!".
Ghe cào cá trên sông Hậu
Đó là chuyến lên đồng nhớ đời, bởi khi tôi lại quá giang ghe gạo trở về nhà, mùa cá ra sông vẫn chưa dứt. Tôi mang lủ khủ nào là cá tươi rọng trong cái thùng nhựa lớn, nào là mấy con khô cá lóc một nắng, vậy mà anh Hai vẫn còn hẹn cuối tháng sẽ mang cá về nhiều hơn. Mớ cá mang về ấy sẽ là một cái Tết ấm no và là cơm áo gạo tiền cho anh chị suốt nửa năm, từ cuối tháng 10 cho đến tháng 7 năm sau…
Theo ghe gạo từ Tha La, dọc kinh Vĩnh Tế ra sông Hậu, tôi thấy người ta nô nức như trẩy hội. Những chiếc dớn, lọp, vó, chà được đặt đầy hai bên con kinh để đón mùa cá ra sông. Phía đồng, người ta còn kéo bò, câu lỡ, lưới giăng, đăng mé… Phía sông Hậu, những đóng đáy, đóng chà có chỗ đã bắt đầu kéo lên để thu hoạch sau mấy tháng làm nhà cho cá ở. Những chiếc ghe cào của người Chăm, người Kinh chạy xình xịch dưới sông. Mỗi lưới cá kéo lên như kéo theo bao hy vọng cho con người.
Tôi vẫn nhớ như in hình ảnh người đàn bà múc mớ cá con trong lưới thả về sông, hay người đàn ông cúi lạy một con rùa to bằng cái thúng, trên mai có khắc dòng chữ "Phóng sinh" rồi thả nó xuống nước. Ông già chủ ghe gạo nói với tôi rằng, đời có cho thì mới có nhận, vật dưỡng nhân thì nhân cũng phải dưỡng vật. Trên đoạn đường dọc sông Hậu trở về nhà, những mùa cá ra sông đã chỉ cho tôi sự hào phóng của thiên nhiên tại xứ sở trên cơm dưới cá, song cũng dạy tôi bài học về việc cho và nhận của con người với thiên nhiên.
Bao mùa cá ra sông đã nuôi anh chị Hai tôi và bao gia đình khác ăn nên làm ra trên xứ sở đồng nước mênh mông rộng mở. Để rồi bây giờ, mùa cá ra sông lại đắp bồi cho tâm hồn tôi một tình yêu, nỗi nhớ về dòng sông quê, như nhớ chính dòng máu của tim mình.
Mua nhanh bán lẹ
Chợ ở gần đập Tha La nhưng dân quen gọi là "chợ ma", có lẽ do nhóm họp khi trời nhá nhem tối và ai cũng nhìn nhau qua những ánh đèn câu leo lét ở trên đầu. Chợ do dân đi câu tự nhóm họp với nhau, thương lái khắp nơi kéo đến mua nhanh bán lẹ, có khi bán "mão" nguyên một xuồng, không cân đo làm chi.
Chị Hai tôi lựa cá lớn chừa lại làm khô, một vài kg cá ngon thì mang ra chợ xã bán. Mớ còn lại, anh Hai bán "mão" nguyên một xuồng, chừng hơn chục kg cá mè vinh, cá chốt, cá lăng, nhiều nhất là cá linh rìa, linh ống...