Tay cầm mớ lờ, lợp và dàn câu giềng (có sợi dây dài, được mắc nhiều lưỡi câu song song dùng để bẫy cá - PV) bước vội xuống chiếc vỏ máy đang neo đậu ở bìa rừng, anh Huỳnh Vũ Hoàng (39 tuổi, ngụ xã Khánh Bình Tây Bắc, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau) thúc giục: “Anh em chuẩn bị đồ đạc, nước uống để vào rừng. Do đặt nhiều lờ, lợp, giăng câu bắt cá, đặt bẫy rắn nên chúng ta đi hơi lâu”.
Dứt lời, anh Hoàng lấy chiếc nón kết đội lên đầu rồi xua tay: “Đi thôi nào, trời này sẽ mưa, mọi người chuẩn bị áo mưa kẻo lạnh”. Rồi nhanh thoăn thoắt, anh nhảy xuống chiếc vỏ lãi nổ máy đưa chúng tôi vào rừng.
Đặt lợp bắt cá lóc trong rừng U Minh Hạ, tỉnh Cà Mau.
Tài điều khiển vỏ máy của anh Hoàng rất “lụa”. Đường vào rừng vừa hẹp, dưới nước có những cánh bèo tai chuột làm vật cản nhưng anh Hoàng vẫn điềm đạm, khéo léo đưa phương tiện luồn lách qua từng kênh mương...
Anh Hoàng tươi cười bên con cá lóc to vừa "thu hoạch" được.
Đến nơi, anh Hoàng nhảy ùm xuống nước, quơ tay vén những lớp bèo, cỏ để lộ ra khoảng trống vừa đủ để đặt những chiếc lờ, lợp xuống mặt nước. Sau đó, anh tiếp tục dùng tay lấy mớ bèo, cỏ khi nãy đậy lên mặt lờ, lợp để bẫy cá lóc.
“Số lờ, lợp này anh mới mua nên đặt để đó, vài ba ngày sau mình mới thăm. Chứ thăm liền chẳng có cá đâu.
Đặt xong anh dẫn chú đi thăm những cái lờ, lợp mà anh đặt trước đó mấy ngày. Còn câu giềng, thăm lợp xong, mình quay lại là thăm được.
Vì để lâu, cá dính câu sẽ sẩy mất liền. Lâu lâu đi rừng, mình trải nghiệm trọn vẹn công việc của nông dân một lần cho biết”, anh Hoàng nói.
Anh Hoàng lội xuyên qua những cánh rừng để đặt bẫy cá.
Anh làm rất chuyên nghiệp, mỗi nơi đặt, anh đều làm dấu riêng để tiện cho lúc thăm. “Rừng thì bao la, rộng lớn, nếu không để lại ký hiệu gì thì lạc mất hết. Nghề này, lội rừng suốt ngày, dẫu mệt nhưng vui.
Vui nhất là khi mình bắt được nhiều cá, đủ lo chi phí sinh hoạt cho gia đình”, anh Hoàng tâm tình.
Sinh ra và lớn lên ở miệt rừng tràm nên tình yêu thiên nhiên dường như đã ngấm sâu vào máu thịt anh.
Anh chia sẻ, hễ ngày nào không vào rừng là ngày đó thấy bồn chồn, bứt rứt, cảm giác rất khó chịu.
Mới 39 tuổi đời nhưng anh Hoàng đã có thâm niên hàng chục năm “lăn lộn” kiếm sống nơi cánh rừng già.
“Anh gắn bó với rừng rất lâu, anh không nhớ rõ khi nào, chỉ biết vào những năm học cấp 2 là anh đã biết đi rừng rồi”, anh Hoàng chia sẻ.
Giữa không gian bốn bề là rừng tràm, tiếng chim rừng kêu hót lanh lảnh. Dưới nước, từng đàn cá lóc tranh mồi, rượt đuổi đá nhau làm nước dợn sóng xua tan sự tĩnh lặng, yên bình của khu rừng.
Chỉ tay về phía mương nước trước mặt, anh Hoàng cho hay: “Ở đây, cá lóc nhiều lắm. Ngoài cá đồng, rùa, rắn, trăn rừng…, nhiều vô kể. Chẳng biết chúng sinh sản như thế nào nhưng vào rừng thứ gì cũng có.
Loại nào bắt được thì mình bắt, loài nào hoang dã thì thả lại rừng để bảo tồn, tái tạo. Nhờ vậy mà sản vật từ rừng ở đây chưa bao giờ vơi cạn”.
Cá lóc đã vào trong lợp.
Xế chiều, khi vừa giăng xong câu giềng, anh Hoàng nhảy vội lên vỏ nổ máy di chuyển xuyên qua các cánh rừng để thăm số lờ, lợp anh đặt từ nhiều ngày trước.
Anh Hoàng nói, khu này rất rộng, khoảng hơn 60ha. Bởi thế, người dân xứ rừng rất dễ tìm kiếm cá để chế biến thức ăn.
Vén lớp bèo tai chuột, lộ ra chiếc lợp thâm đen do bị ngâm nước quá lâu, thấy nặng, anh Hoàng vội nói: “Có cá lớn”. Rồi anh nhẹ nhàng nâng chiếc lợp khỏi mặt nước đưa lên vỏ lãi.
Vẻ mặt hớn hở, anh Hoàng khoe: “Thấy chưa, anh nói không sai đâu”. Những con cá lóc nặng khoảng 1kg thi nhau trườn qua lại trong lợp trông rất vui mắt. Cứ thế, anh Hoàng đưa chúng tôi đi thăm lợp bắt được vô số cá lóc.
Cá lóc giãy mạnh khi dính câu.
Thăm xong lợp, lờ, chúng tôi quay lại thăm câu giềng đã giăng trước đó khoảng 2 giờ đồng hồ. Vừa dừng vỏ máy mé bờ rừng, lộ ra trước mắt tôi là những con cá lóc to đang dính câu. Thấy bóng người, chúng cố giãy giụa để tìm cách thoát thân làm nước văng tung toé.
Chỉ về những con cá lóc đang dính câu, anh Hoàng tâm tình: “Cá ở đây còn nhiều, dân tụi anh chỉ bắt cá lớn thôi, nhưng chỉ được bắt khi đã qua mùa sinh sản”.
Trời chiều trở nên u ám, mây đen giăng kín. Anh Hoàng bảo: “Mưa nghen. Thôi về, trầm mình dưới nước từ trưa giờ cũng lạnh lắm rồi”.
Niềm vui của người dân xứ rừng khi dính được cá to.
Nhưng chưa kịp nổ máy, cơn mưa nặng hạt như trút xuống cánh rừng khi chúng tôi còn chưa kịp mặc áo mưa. Anh Hoàng nổ máy, phóng thẳng về nhà, kết thúc một ngày vào rừng trải nghiệm săn bắt cá lóc.
Thực sự đấy là một cảm giác gần gũi, thơ mộng mà tôi đã trải qua, một kỷ niệm đáng nhớ với xứ rừng tràm U Minh Hạ.
Xứ tràm U Minh Hạ, nơi có tiếng vang, bởi còn lưu giữ được nét đẹp tự nhiên, hoang sơ của vùng đất trù phú, giàu sản vật. Người dân nơi đây vẫn còn giữ được nét hồn quê, mộc mạc của những cánh rừng bạt ngàn.
Trên bờ họ trồng rừng để phát triển sản xuất, dưới những kênh mương, bà con tận dụng để bảo tồn, tái tạo và phát triển nguồn lợi cá đồng.
Cách đây không lâu, ông Lê Hồng Thịnh, Phó chủ tịch UBND huyện U Minh từng chia sẻ, rừng tràm U Minh hạ vẫn còn vẹn nguyên vẻ đẹp hoang sơ, mộc mạc nên rất thích hợp để phát triển du lịch sinh thái cộng đồng.
Thành quả sau chuyến đi rừng của anh Hoàng.
"UBND huyện U Minh đã chỉ đạo các ngành chuyên môn hướng dẫn cho bà con nhân dân cách làm các dịch vụ, du lịch từ lợi ích kinh tế từ rừng mang lại.
Đồng thời, hướng dẫn các chủ rừng đầu tư quy hoạch lại hệ thống kênh mương trong khu vực rừng quản lý; đầu tư nuôi cá đồng và tổ chức các hoạt động trải nghiệm tham quan trong rừng tràm bằng xuồng ba lá.
Tổ chức các hoạt động câu cá, đánh bắt cá; tham quan trải nghiệm nghề gác kèo ong, lấy mật để thu hút khách du lịch", ông Thịnh cho biết.
Những sản vật như cá, rùa, rắn… thậm chí, nhiều loài động vật hoang dã vẫn còn tồn tại ở xứ rừng này. Chính sự trù phú, đa dạng về chủng loại ấy đã làm nên một cánh rừng tràm U Minh hạ đậm đà bản sắc thiên nhiên.
Năm 2006, Thủ tướng Chính phủ ký quyết định chuyển khu bảo tồn thiên nhiên Vồ Dơi thành Vườn Quốc gia U Minh Hạ.
Vườn có tổng diện tích 8.256ha thuộc địa bàn 2 huyện U Minh và Trần Văn Thời (Cà Mau). Đây là nơi được UNESCO đưa vào danh sách các khu dự trữ sinh quyển của thế giới.