Chủ nhân lăng Cơ Thánh là ông Nguyễn Phúc Luân – Thân phụ của Vua Gia Long, người sáng lập vương triều Nguyễn với 13 đời Vua trị vì trong 143 năm, mà vị Vua cuối cùng là Hoàng đế Bảo Đại.
Ông Nguyễn Phúc Luân sinh ngày 11 tháng Sáu năm 1733 (29 tháng Tư năm Quý Sửu), mất ngày 24 tháng Mười năm 1765 (10 tháng Chín năm Ất Dậu), là con thứ hai của Võ vương Nguyễn Phúc Khoát (1714-1765), anh của Định vương Nguyễn Phúc Thuần (1765-1777), được đào tạo để nối nghiệp chúa.
Hình ảnh lăng Cơ Thánh, nơi an nghỉ của thân phụ vua Gia Long, làng Cư Chánh, xã Thủy Bằng, thị xã Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế. Sưu tầm.
Năm Ất Dậu (1765), chúa Nguyễn Phúc Khoát băng hà, đã để lại Di chiếu cho người con trai thứ hai là Nguyễn Phúc Luân nối ngôi. Nhưng Tể tướng Trương Phúc Loan cùng một số gian thần lộng quyền sửa đổi di chiếu, tống Nguyễn Phúc Luân vào ngục và đưa Nguyễn Phúc Thuần (chỉ mới 12 tuổi) lên ngôi làm “bù nhìn” để dễ bề giám sát. Tháng Chín năm 1765, Nguyễn Phúc Luân qua đời ở phủ đệ [1].
Năm 1790, tướng Nguyễn Văn Ngũ của quân Tây Sơn sai người đào mồ Nguyễn Phúc Luân, lấy xương cốt ném xuống dòng sông Hương. Một ngư dân là Nguyễn Ngọc Huyên làm nghề chài lưới vớt được xương sọ, cất giấu và trao lại cho Vua Gia Long để làm lễ cát táng[2].
Năm 1801, Vua Gia Long lệnh cho cải táng hài cốt tại nơi chôn cất cũ, đặt tên là Cơ Thánh lăng. Do lăng chỉ chôn hộp sọ của Nguyễn Phúc Luân, nên dân địa phương vẫn quen gọi là lăng Sọ.
Năm Gia Long thứ 3 (1804), nhà vua phong cho Ngọc Huyên chức Cai đội, làm Suất xã dân xã Cư Chánh sai giữ gìn lăng hoàng khảo[3].
Đến năm Minh Mệnh thứ 11 (1830) Nguyễn Ngọc Huyên được phong tước An Ninh bá. Khi mất, Vua Gia Long đã cho lập miếu thờ ông ngay bên cạnh lăng mộ chúa Nguyễn Phúc Luân[4].
Sinh thời ông Nguyễn Phúc Luân không ở ngôi chúa. Nhưng năm 1806, Vua Gia Long vẫn truy tôn miếu hiệu của thân phụ là Hưng tổ Hiếu Khang Hoàng đế và hậu hiệu của thân mẫu là Hưng tổ Hiếu Khang Hoàng hậu.
Cả hai vị này đều thờ tại Hoàng khảo miếu nằm góc Tây nam trong Hoàng thành. Miếu xây dựng vào năm Gia Long thứ 3 (1804) [5], trên vị trí Thế miếu hiện nay.
Trung tâm Lưu trữ quốc gia I, Châu bản triều Nguyễn: Bản phụng chỉ của nhà Vua ban cho Nguyễn Hữu Thận ngày mồng 1 tháng Chín năm Minh Mệnh thứ 6 (1825) về việc thưởng cho binh lính, thợ săn, dân phu phục vụ ngày giỗ ở Hưng miếu.
Năm Minh Mệnh thứ 2 (1821), Hoàng khảo miếu được dời lùi về phía bắc chừng 50m để lấy chỗ dựng Thế miếu và đổi tên thành Hưng Tổ miếu[6]. Hằng năm, vào các ngày giỗ tổ Hưng miếu, triều đình đều phái binh lính, thợ săn, dân phu săn bắt thú rừng và các địa phương dâng tiến sản vật để phục vụ làm tế lễ.
Ngày mồng 1 tháng Chín năm Minh Mệnh thứ 6 (1825) nhà Vua ban chỉ cho Nguyễn Hữu Thận cấp thưởng cho 14 tên lính Cẩm y, Nội hầu, Thượng trà, Tiểu sai, mỗi tên 5 mạch tiền; 120 thợ săn, dân phu ở Phù Bài, Thuỷ Ba, mỗi tên 5 mạch tiền, nửa phương gạo; dân phu ở phủ Thừa Thiên theo hầu việc, 5 phương gạo phục vụ các ngày mồng 10, 14 tháng Chín là ngày giỗ tổ Hưng miếu [7].
Vào những dịp cuối năm hay tiết thanh minh các vua triều Nguyễn đều đích thân hoặc phái công tôn, hoàng thân đến lăng Cơ Thánh tế lễ, để tỏ lòng của con cháu tưởng nhớ tới công đức của tổ tiên. Bản phụng dụ của nhà vua ban cho Phan Bá Đạt ngày 14 tháng Ba năm Thiệu Trị thứ nhất (1841): “Tết Thanh minh năm nay trẫm đến yết lễ lăng Thiên Thụ rồi lại đến yết lễ tại các lăng Cơ Thánh, Thụy Thánh, và lăng của hoàng tỷ.
Thấy các cây thông ở đó xanh tốt, đường đi thẳng thắn chỉnh tề thật là an ủi lòng kính hiếu của trẫm. Vì vậy những người thủ hộ từ thân biền cho tới binh lính, gia ân đều thưởng cho mỗi người 2 tháng tiền lương” [8].
Khu vực tẩm được bao bọc bởi tường thành khổng lồ, quy mô hoành tráng với nhiều công trình, tuy nhiên đến nay phần lớn đã bị chiến tranh hủy hoại, chỉ còn lại khu vực chính, nơi có nấm mồ hình vuông, 3 tầng chôn sọ Chúa Nguyễn Phúc Luân vẫn nguyên vẹn.
Sử liệu gốc - Châu bản triều Nguyễn còn giữ lại những kí ức về lịch trình tu bổ nền mặt tường thành có nhiều chỗ bị hư hại vào năm Tự Đức thứ 20 (1867), cột trụ cấm năm Tự Đức thứ 21 (1868), lan can bị cháy vào trong hạn cấm vào năm Duy Tân thứ 9 (1915), giới hạn cột cấm bên trái lăng bị cháy vào năm Bảo Đại thứ 5 (1930) [9].
Tồn tại đã hơn 200 năm với kiến trúc lăng Sọ thực tế không độc đáo và hoành tráng như lăng tẩm của các vị vua dưới triều Nguyễn khác.
Tuy nhiên, sự hiện hữu của Cơ thánh lăng nhắc nhở một trang sử ảm đạm của lịch sử Việt Nam cuối thế kỷ XVIII và những câu chuyện đượm buồn của cuộc đời chúa Nguyễn Phúc Luân vang vọng mãi đến ngàn đời sau.
Đại Nam nhất thống chí. Tập I. NXB Thuận Hóa, Thừa Thiên Huế, 1992, tr.40: “Lăng Cơ Thánh táng Hưng tổ Hiếu Khang Hoàng đế, ở núi Cư Chánh, huyện Hương Thủy”.
[1] Đại Nam thực lục. Tập 1. NXB Giáo dục. Hà Nội, 2007, tr.180.
[2] Đại Nam thực lục. Tập 1. NXB Giáo dục, Hà Nội, 2007, tr.499.
[3] Đại Nam thực lục. Tập 1. NXB Giáo dục, Hà Nội, 2007, tr.634.
[4] Đại Nam thực lục. Tập 1. NXB Giáo dục, Hà Nội, 2007, tr.499.
[5] Đại Nam thực lục. Tập 1. NXB Giáo dục, Hà Nội, 2007, tr.629.
[6] Đại Nam nhất thống chí. Tập 1. NXB Thuận Hóa, Thừa Thiên Huế, 1992, tr. 40.
[7] TTLTQG I, Châu bản triều Nguyễn.
[8] TTLTQG I, Châu bản triều Nguyễn.
[9] TTLTQG I, Châu bản triều Nguyễn.