Bản đồ Lăng vua Gia Long.
Phần trung tâm của khu đất này 3 mặt tả, hữu, hậu rộng 100 trượng (424m), mặt tiền rộng 150 trượng (636m). Lăng vua và hoàng hậu đặt trong 3 lớp bảo thành xây gạch, vòng trong 30m, rộng 24m, cao 4,16m; vòng ngoài rộng 31m, dài 70m, cao 3,56m, dày 1m.
Bảo phong xây kiểu 2 ngôi nhà đá 石室 có mái kề nhau kiểu “càn khôn hiệp đức” 乾坤協德, trước bảo phong có 2 hương án xây đá.
Mặt trước và sau lưng đều có bình phong, cửa ngoài làm bằng đồng. Trước mặt là 7 tầng sân chầu lát gạch, lối thần đạo lát đá Thanh. Ở tầng sân cuối hai bên dựng tượng thị vệ, voi, ngựa (10 người, 2 voi, 2 ngựa), đều bằng đá Thanh.
Bi đình được xây để bảo vệ cho tấm bia đá ghi khắc bài văn bia Thánh Đức Thần công do vua Minh Mạng soạn để nói về tiểu sử và công đức của vua cha. Bia cao 2,96m, rộng 1m, dày 0,32m, dựng trên một cái bệ cũng bằng đá dài 1,95m, rộng 1,55m. Bia và đế làm bằng đá Thanh đều được chạm trổ rất tinh xảo.
Trán bia trang trí mặt rồng ngang miệng ngậm chữ "thọ". Tai trên, tai dưới và hai diềm bên chạm hình rồng mây. Ở diềm trên, giữa trang trí hình mặt trời, hai bên là vân xoắn. Diềm dưới chạm hình thủy ba và vân xoắn. Ngày xưa, tất cả những chữ khắc trong lòng bia đều thếp vàng. Gần đó là nơi thờ “Hậu Thổ Chi Thần”, một tấm bia nhỏ đặt trên bệ đá 2 cấp, cao hơn 1,2m.
Trước là Nghi Môn, hai bên là Tả hữu tòng viện, chính giữa là điện Minh Thành, kiểu nhà kép 5 gian 2 chái, mặt nền 17,6m x 19,6m, bên trong thờ Long vị của vua Gia Long và Thừa Thiên cao Hoàng hậu. Phía sau điện Minh thành xưa có Bảo Y Khố, nơi đặt áo quần thờ tự bà Thừa thiên Cao hoàng hậu.
Bảo phong xây bằng đá; bình phong trước và hương án cũng xây bằng đá Thanh. Khu điện thờ có công trình kiến trúc chính là điện Gia Thành 嘉成殿, làm nơi thờ bà Thuận Thiên Cao hoàng hậu, kiến trúc nhà kép, nay đã bị đổ nát.
Đây là lăng hoàng thái hậu đầu tiên của triều Nguyễn. Khu lăng phía trước có hồ gần vuông (88m x 77m), bảo phong làm bằng đá Thanh, ngoài có 2 vòng tường thành bảo vệ, vòng trong chu vi 89m, cao 3,4m, vòng ngoài chu vi 138m, cao 3,6m; cửa ngoài kiểu cổng vòm; trước sau đều có bình phong xây gạch che chắn. Phần tẩm điện nằm trong một vòng thành dài 108m, rộng 63m, cao 3,7m.
Điện chính vốn gần giống điện Minh Thành, kiểu nhà kép, mặt nền 25m x 19,5m, trước sau còn có tả hữu tòng viện, tả hữu tòng tự, nhưng tất cả đã đổ nát.
Lăng vua Minh Mạng từ Hiếu Lăng là lăng duy nhất của một vị hoàng đế, không có bồi táng hoàng hậu hay các thành viên hoàng gia khác. Lăng được lựa chọn, quy hoạch và xây dựng rất công phu.
Bố cục lăng xếp theo chiều dọc kiểu hình chữ Nhất (一), dựa lưng vào Hiếu Sơn, phía sau nữa là núi Kim Phụng 金風山 (núi chủ của vùng Huế, cao 475m), mặt hướng ra ngả ba sông Hương, theo trục Càn-Tốn (tây bắc-đông nam). Có thể chia kiến trúc lăng thành 3 phần: trục trung tâm và 2 trục tả hữu.
Tòa nhà bia đặt trên nền đài 2 tầng, cao hơn 9m, kích thước cạnh nền đài 20m x 20m; riêng nhà bia kiểu phương đình, cạnh 10m x10m, bên trong dựng tấm bia Thánh Đức Thần Công cao hơn 3m, đặt trên bệ đá Thanh (cao 1,09m, rộng 2,33m, dài 1,65m).
Tiếp theo là 3 tầng sân tế (rộng 44,8m x 45m). Khu tẩm thờ nằm trong vòng tường thành kép kín, trổ cửa 4 mặt. Mở đầu bằng Hiển Đức Môn 顯德門, một chiếc cửa tam quan bằng gỗ, có cổ lâu. Tiếp đến là điện Sùng Ân 崇恩殿, làm kiểu nhà kép (mặt nền 23,45m x 22,05m), trong thờ vua Minh Mạng và Hoàng hậu. Phía trước hai bên là Đông-Tây phối điện 東西陪殿, phía sau hai bên có Tả -Hữu tùng viện 左右從院. Sau cùng kết thúc bằng Hoằng Trạch Môn 弘澤門, kiểu cửa vòm xây gạch.
Tiếp theo là 3 chiếc cầu (giữa là cầu Trung Đạo 中道橋, trái là Tả Phù 左輔橋, phải là Hữu Bật 右弼橋) nối qua Minh Lâu 明樓, một tòa nhà hai tầng đặt trên ngọn đồi đắp 3 tầng, gọi là Tam Tài Sơn 三才山. Tiếp nữa là cầu Thông Minh Chính Trực 通明正直橋 nối ngang qua hồ Tân Nguyệt 新月湖đến Bảo thành 寶城. Bảo thành có vòng tường xây gạch, cao 3,5m, chu vi 273m, bao bọc lấy một quả đồi tự nhiên hình tròn, trên trồng thông. Bên dưới là Huyền cung玄宮xây ngầm trong lòng đất (15). Toàn bộ trục Thần đạo này dài hơn 700m.
Về quy mô và hình thức kiến trúc, các công trình tại Xương lăng gần tương tự với Hiếu lăng của vua Minh Mạng, nhưng nhỏ và đơn giản hơn.
Tiếp theo là tòa bi đình, đặt trên nền đài cao 2,65m, cấu trúc gần giống nhà bia lăng Minh Mạngbên trong đặt tấm bia Thánh Đức Thần Công do vua Tự Đức soạn. Tiếp đến là Đức Hinh lâu 德馨樓, và chếch ra sau là Hiển Quang Các 顯光閣. Đức Hinh Lâu kiến trúc tương tự như Minh Lâu nhưng chỉ còn lại nền móng (mặt nền 18,5m x 18,5m); hai bên có 2 trụ biểu xây gạch.
Tiếp theo là hồ Ngưng Thuý 凝翠池, rộng 7.600m2, hình bán nguyệt, ôm bọc lấy Bảo thành hình tròn. Nối thông qua hồ là 3 chiếc cầu: Chánh Trung 正中橋, Đông Hòa 東和橋 (tả) và Tây Định 西定橋(hữu). Bảo thành xây gạch, cửa bằng đồng, chu vi 260m, bên trong trồng thông um tùm tựa bảo thành lăng Minh Mạng.
Lần tường ngoài cao 3,6m, chu vi 89,4m; lần tường trong cao 2,65m, chu vi 60,5m; trước sau đều có bình phong che chắn, cánh cửa làm bằng đồng. Bảo phong xây kiểu thạch thất như lăng Gia Long.
Khu ngoại lăng gồm Bến Ngự (bến thuyền bên sông Hương), Ngự Lộ御路 (con đường đất rộng 3m dẫn vào lăng), 2 Trụ biểu 花表柱xây gạch cao 15m, Công Sở Đài 公所台 (tòa nhà dành cho binh lính canh trực, rộng 5 gian, nay đã bị hủy hoại).
Khu nội lăng bắt đầu bằng hồ bán nguyệt (rộng hơn 2.000m2), rồi đến 3 sân chầu; sân tế lát gạch Bát Tràng (lối giữa lát đá Thanh); rồi đến Bảo thành. Bảo thành quy chế 2 lớp bao bọc lấy Bảo phong ở trong; lớp tường ngoài dài 26m, rộng 20,7m, cao hơn 3m; tường trong dài 16m, rộng 13,8m, cao 2,6m.
Bảo phong xây đá Thanh, kiểu thức như lăng Thiên Thọ, dài 4m, rộng 3,12m, cao 1,3m; phía trước có hương án bằng đá; trước sau đều có bình phong che chắn. Các lăng mộ phụ thuộc có lăng cố Hoàng Nữ 故皇女, lăng Tảo Thương và lăng Chư Công 諸公; đây là tẩm mộ của những người con của nhà vua bị chết khi còn nhỏ.
Đây là khu lăng mộ rộng lớn với tổng diện tích gần 220ha, riêng nội lăng khoảng 13,5ha, bao gồm 3 khu lăng: Khiêm Lăng, Khiêm Thọ Lăng và Bồi Lăng. Điểm đặc biệt của khu lăng này là toàn bộ việc thiết kế đều do vua Tự Đức thực hiện, và trong khoảng 16 năm sau khi xây dựng xong (1867-1883) nó là một ly cung, sau đó mới trở thành khu lăng tẩm.
Ngoài 2 trục lăng chính thì Khiêm Thọ Lăng và Bồi lăng đều là những lăng mộ được táng vào sau, không theo quy hoạch từ đầu nên đã ảnh hưởng đến tổng thể kiến trúc của lăng Tự Đức.
Giữa hồ có Khiêm Đảo謙島, trên dựng 3 ngôi đình nhỏ là Nhã Khiêm雅謙亭, Lạc Khiêm樂謙亭 và Tiêu Khiêm標謙亭, bên bờ hồ có 2 tòa thủy tạ Dũ Khiêm 愈謙榭 và Xung Khiêm沖謙榭; lại có 3 chiếc cầu gạch Tuần Khiêm, Tiễn Khiêm 踐謙橋 và Do Khiêm由謙橋 nối liền hai bờ hồ và chiếc cầu gỗ nối qua đảo.
Phía sau điện Hòa Khiêm là điện Lương Khiêm良謙殿, vốn là tẩm cung dành vua nghỉ ngơi, sau thành nơi thờ Thái hậu Từ Dũ (mẹ vua); hai bên là Ôn Khiêm Đường 溫謙堂(nhà để trang phục) và Minh Khiêm Đường 鳴謙堂(nhà hát riêng của vua), phía sau là Tòng Khiêm viện 從謙 院và Dụng Khiêm viện 用謙院. Sau nữa lại có Ích Khiêm Các 益謙閣, vườn hoa.
Bên hữu trục tẩm có một khu vực rộng với nhiều dãy nhà ngăn thành các phòng nhỏ, là nơi dành cho phi tần ở mỗi khi nhà vua lên Khiêm Cung. Gần ra phía trước là Chí Khiêm Đường 至謙堂(nơi thờ cung phi tiền triều), hai bên có Y Khiêm Viện依謙院 và Trì Khiêm Viện持謙院.
Bia cao 4m, rộng 2,15m đặt trên bệ đá cao 1m, dài 3,08m, rộng 1,6m. Tiếp đến là ao Tiểu Khiêm 小謙池hình bán nguyệt, rồi bảo thành 2 lớp, trong dựng bảo phong bằng đá Thanh, kiểu dáng tựa Bảo phong lăng Gia Long. Bảo phong dài 2,96m, rộng 1,58m, cao 2,47m.
Lại xây tường thành, trong làm bình phong trước sau, cửa lầu, cửa ngách, cánh cửa bằng đồng, cột đồng trụ chạm vẽ hình rồng.
Các khoản vật liệu cần dùng: đá Thanh, đá Quảng khoảng hơn 2000 phiến; các hạng gạch hơn 400.000 viên; các hạng ngói hơn 7000 viên; các hạng vôi hơn 20.000 cân; các hạng trà hơn 480.000 cân; nhựa thông hơn 700 cân; chì hơn 1000 cân, mật mía hơn 30.000 cân; sắt hơn 3000 cân; lưới rách hơn 200 cân; còn các hạng thuốc trên dưới 20, 30 cân; Quản suất viên binh hơn 1200 người; thợ đá 200 tên, thợ mộc 150 tên, thuyền Ô, thuyền Lê, san bản 15 chiếc, nhận làm việc 1 năm 2 tháng”.(16)
Bảo thành 2 lớp tường, trước sau đều có bình phong che chắn. Tường ngoài 31,5m x 21,3m; tường thành trong 19m x 14,55m. Bình phong trước của lăng Khiêm Thọ được trang trí ghép sành sứ rất đẹp. Bảo phong xây bằng đá Thanh, tương tự lăng vua, dài 2,96m, rộng 1,58m, cao 2,5m.
Lăng nằm ở bên tả ngạn hồ Lưu Khiêm, cùng phía với Khiêm Thọ Lăng. Khu lăng chia thành 2 phần: phần Tẩm thờ sử dụng tòa Chấp Khiêm Trai執謙齋(đổi thành Chấp Khiêm Điện) làm nơi thờ tự, bên tả là lăng nhà vua.
Chấp Khiêm Điện kiểu nhà kép nhưng cấu trúc đơn giản (mặt nền 16,3m x 10,8m), bên hữu còn có hành lang, nhà phụ. Sau điện có nền móng Di Khiêm Lâu遺謙樓, đây vốn là tòa nhà 2 tầng (36 cột trụ, mặt nền 16,3m x16,3m), đặt trên nền cao 1,56m, khi xây Bồi Lăng bị triệt giải.
Khu lăng có 3 tầng sân tế, 2 vòng tường thành, vòng ngoài 14,7m x 16,9m, cao 2,4m; vòng trong 10,2m x 8,2m, cao 1,8m. Bảo phong xây rất thấp, cao 0,37m, dài 2,7, rộng 1,4m, bên dưới là Huyền cung, quy cách xây dựng cũng được tư liệu ghi rõ.
Do vua Dục Đức chỉ làm vua được 3 ngày, chưa kịp đặt cả niên hiệu, bị phế truất và chết thảm trong ngục nên lúc đầu việc chôn lấp rất sơ sài. Sau khi Thành Thái (con trai vua Dục Đức) lên ngôi thì mới cho xây dựng quy mô và đặt tên lăng.
Trong Bảo thành có nhà Hoàng Ốc hình vuông (cạnh 7m) sườn gỗ, lợp mái ngói Hoàng lưu li. Hai bên nhà là Bảo phong gồm 2 ngôi mộ xây liền kề kiểu “Càn Khôn hiệp đức” như Thiên Thọ Lăng nhưng kiểu hình khối chữ nhật với 5 tầng chồng lên nhau, cao 0,84m.
Toàn bộ khu vực này có vòng tường xây gạch hình chữ nhật bao bọc. Tường cao 3m, dày 0,55m, chu vi 262m; khoảng giữa 4 mặt đều trổ cửa. Cửa hậu và hai cửa bên đều làm theo lối cửa vòm cuốn, có mái đúc giả ngói, còn cửa chính phía trước, mang tên Cung Môn 宮門 làm bằng gỗ, kiểu 3 gian, 2 tầng.
Từ nền Cung Môn đi ra phía trước có đến 15 bậc cấp bằng đá Thanh, 2 bên đắp rồng chầu thành bậc, đi ra phía sau có 3 bậc cấp dẫn xuống sân trước điện Ngưng Hy 凝禧殿.
Ở chính điện ngoài bài vị vua Đồng Khánh, 2 bên tả, hữu còn thờ bài vị 2 hoàng hậu Thánh cung, Tiên cung.
Bảo phong nằm trong 3 vòng tường thành xây gạch hình vuông. Vòng tường ngoài (25 x 25m), cao 1,6m, dày 0,5m; vòng tường thứ 2 chỉ cao 0,5m, dày 0,7m; vòng tường thứ 3 cao đến 3,4m, dày 0,6m.
Cả 3 vòng tường đều trổ một cửa phía trước; sau cửa ngoài cùng có bình phong trang trí hổ phù và chữ thọ. Bảo phong xây bằng đá Thanh kiểu 1 ngôi nhà có mái, dài 4,2m, rộng 2,6m, bờ nóc và đầu hồi trang trí hình rồng, dơi và chữ thọ.
Bia cao 3m, rộng 1,45m, dày 0,16m đặt trên bệ cũng bằng đá Thanh cao 0,6m, rộng 0,8m, dài 2,8m. Trên bia khắc bài văn ca ngợi công đức vua cha của vua Khải Định viết năm 1916. Hai bên nhà bia là 2 trụ biểu xây gạch trát vữa ximăng.
Khác với tượng đá Thanh ở các lăng mộ vua Nguyễn tiền triều, tượng ở đây đắp bằng gạch và vôi vữa, hình thức tượng khá thanh mảnh. Tất cả các bức tượng đều được đặt trên các bệ vuông xây gạch.
Về mặt lịch sử kiến trúc, Tư lăng là công trình đánh dấu sự ảnh hưởng của kiến trúc hiện đại vào kiến trúc truyền thống Việt Nam, để rồi mở kỷ nguyên đấu tranh và hòa hợp giữa hai dòng kiến trúc này.
Giữa không gian ấy, lăng Khải Định nổi bật lên như một tòa lâu đài đồ sộ của Tây Âu thời trung cổ. Mặt bằng xây dựng lăng hình chữ nhật (117m x 48,5m), có hàng rào cao 3m bảo vệ. Toàn bộ khu tẩm điện và lăng mộ hòa chung với nhau thành 1 trục thống nhất, bố trí trên 7 tầng sân với 127 bậc cấp xây gạch.
Tầng dưới cùng là con đường chạy qua trước mặt lăng, vượt qua 37 bậc cấp mới đến cửa chính. Hệ thống bậc cấp chia thành 3 lối đi, 2 bên thành bậc đắp nổi 4 con rồng rất lớn, tư thế bò từ trên xuống. Qua khỏi cửa chính là tầng sân thứ 2, hình chữ nhật (47m x 24,5m), lát gạch ca rô.
Hai bên sân có 2 nhà Tả, Hữu tòng tự, tục gọi là nhà Xanh, đều 3 gian, xây vách, mái lợp ngói liệt; trong thờ bài vị các công thần. Qua tiếp 29 bậc cấp nữa là sân Bái đình (47m x 40,5m). Nghi môn kiểu tam quan đồ sộ ở phía trước. Hai bên sân, mỗi bên có 2 hàng tượng gồm quan văn, quan võ, binh lính, ngựa, voi tạc bằng đá, đứng chầu.
Bi đình đặt ở giữa phía cuối sân. Nhà bia xây hoàn toàn bằng bê tông, chia hai tầng mái, lợp ngói ardoise. Trong bi đình là tấm bia bằng đá Thanh đặt trên bệ đá kiểu chân quỳ khắc bài văn ca ngợi công đức vua Khải Định.
Bia cao 3,1m, rộng 1,2m, bệ bia cao 0,76m, rộng 0,85m, dài 2,1m. Cả bia và bệ đều chạm khắc công phu, hình thức kiểu bia đá Huế truyền thống. Sau Bái đình là 3 tầng sân cũng hình chữ nhật, lát gạch carô, mỗi tầng cách nhau 13 bậc cấp, thành bậc đều đắp 4 con rồng cùng tư thế bò từ trên xuống.
Trên sân có các bồn hoa hình chữ nhật trồng các loại cây cảnh, đặc biệt ở tầng sân thứ 2 còn có 2 cột cờ bằng bê tông khá hiện đại dùng để treo cờ vào dịp lễ tết. Cung Thiên Định天定宮 nằm ở tầng sân thứ 7, phía cuối trục thần đạo, và cũng là vị trí cao nhất của lăng.
Đây là một tòa nhà đồ sộ kiêm cả chức năng điện thờ và nơi đặt thi hài của nhà vua. Cung Thiên Định có mặt bằng hình chữ nhật (34,5m x 26,4m), nền lát đá cẩm thạch, không gian chia làm 5 phòng. Hai bên là Tả, Hữu trực phòng, tường quét giả màu đá cẩm thạch.
Ba phòng giữa xếp theo hình chữ tam. Phòng phía trước đặt án thờ đúc bằng bê tông, phía trên có bức hoành đề tên điện (Khải Thành Điện啟成殿). Toàn bộ 4 mặt tường được trang trí hết sức công phu bằng mảnh sành sứ ghép nổi với các đề tài bát bửu, tứ thời, ngũ phúc ghép với các câu thơ.
Trần nhà trang trí bằng bức tranh Cửu long ẩn vân vẽ rất hoành tráng. Phòng giữa đặt bức tượng đồng mạ vàng vua Khải Định (tỉ lệ 1,7/1) ngồi trên ngai vàng, đúc năm 1920 tại Pháp. Trên đầu tượng là chiếc Bửu tán bằng bê tông, sau lưng tượng là hình mặt trời đang lặn xuống. Phía dưới tượng, ở độ sâu 9 mét là nơi cất giữ thi hài nhà vua.
Phòng trong cùng có nền cao hơn các gian ngoài 1,7m. Đây là gian đặt bàn thờ và bài vị vua Khải Định cùng các đồ tự khí, ngự dụng. Có thể nói rằng, giá trị lớn nhất của lăng Khải Định là nghệ thuật trang trí bằng cách ghép nổi mảnh sành sứ và những bức tranh hoành tráng ở nội thất cung Thiên Định.
Nhưng nhìn một cách toàn diện thì đây còn là khu lăng đã rất thành công trong việc kết hợp một cách hài hòa các trường phái kiến trúc Đông - Tây để tạo nên một dấu ấn đặc biệt trong lịch sử kiến trúc Việt Nam.
Loại đầu theo kiểu chữ Nhất (一), loại thứ hai kiểu chữ Nhị (二), loại thứ 3 vừa giống chữ Tam (三) vừa giống chữ Nhất (theo chiều ngang). Những cách sắp xếp bố cục trên có lẽ đều xuất phát từ sự cải biến bố cục của khu lăng đầu tiên –lăng Thiên Thọ, nhưng thực sự đã tạo nên sự phong phú, đa dạng của kiến trúc lăng tẩm Nguyễn, nhất là khi mỗi khu lăng đều biết gắn liền với điều kiện tự nhiên để tạo dựng các công trình cho phù hợp.
Chính yếu tố nước đã làm kiến trúc các khu lăng mềm mại, nên thơ và giàu bản sắc phương Nam hơn. Bên cạnh đó các loại cây cối, hoa cỏ (Mộc 木) cũng rất được chú trọng. Các khu lăng đều được đặt trong những khu rừng lớn tự nhiên, được trồng rất nhiều loại cây, hoa… thể hiện rõ lối kiến trúc cảnh vật hóa hướng đến sự hòa đồng với thiên nhiên.
Sau khi lên ngôi, vua Đồng Khánh mới cho xây điện Truy Tư, cách đó khoảng 100m về phía đông nam để thờ cha.
Công trình đang dở dang thì vua Đồng Khánh lâm bệnh rồi băng hà ngày 28/1/1889. Vua Thành Thái kế vị đã quyết định dùng điện Truy Tư để thờ vua Đồng Khánh, đổi tên thành điện Ngưng Hy, còn bài vị Kiến Thái vương được đưa về thờ tại Hân Vinh từ đường, bên bờ sông An Cựu.
Lăng mộ vua Đồng Khánh được xây cách điện thờ khoảng 100m về phía tây nam nhưng chỉ làm rất đơn giản. Tháng 8/1916, con trai vua Đồng Khánh, vua Khải Định cho tu sửa lăng với các vật liệu hiện đại. Những năm 1921, 1923, khu vực điện thờ lại được trùng tu.
Như vậy công cuộc xây dựng lăng Đồng Khánh đã diễn ra nhiều đợt trong thời gian gần 35 năm. Sự phức tạp của lịch sử xây dựng lăng để lại dấu ấn rất rõ trên kiến trúc khu lăng mộ này.