Ngày 2/9/1945 không chỉ là một dấu mốc lịch sử đã đưa Việt Nam từ thân phận nô lệ trở thành một quốc gia độc lập, tự chủ, sự kiện này còn mở ra một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Sau 80 năm độc lập, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, từ một đất nước bị tàn phá bởi chiến tranh đã trở thành một quốc gia có vị thế quan trọng trong khu vực và trên trường quốc tế.

Ngày Quốc khánh 2/9 là dịp để chúng ta tưởng nhớ quá khứ hào hùng và là cơ hội để nhìn nhận hiện tại và định hướng tương lai. Dân Việt tổ chức bàn tròn giới thiệu những suy nghĩ, tâm tư, trăn trở của nhiều tầng lớp trong xã hội: những giáo sư, nhà sử học, nhà thơ, đạo diễn đến những người lính, doanh nhân và những thế hệ trẻ.

Như một tấm gương chiếu hậu, những chia sẻ của họ giúp bạn đọc hiểu rõ hơn hành trình dân tộc đã đi qua, từ đó vững vàng hơn trên con đường phía trước. Thế hệ trẻ với trí tuệ, sự sáng tạo, nhiệt huyết chính là những người sẽ viết tiếp câu chuyện hòa bình và phát triển của đất nước.

Thưa Giáo sư, là một nhà khoa học, nhiều năm nghiên cứu về lich sử Việt Nam, với góc nhìn của ông, điều gì làm nên tính chất đặc biệt và tầm vóc của Cách mạng tháng Tám? Từ bản Tuyên ngôn Độc lập ngày 2/9/1945 đến hành trình hội nhập quốc tế ngày nay, theo ông, đâu là "si chỉ đỏ" xuyên sut làm nên "cú huých" của dân tộc Việt Nam?

- Đúng như tên gọi, cuộc Cách mạng tháng 8/1945 là “đổi thay căn bản” trong xã hội Việt Nam. Đó là khi đất nước ta lật đổ ách thống trị thực dân, xóa bỏ sự tồn tại của chế độ phong kiến. Sau đó, ngày 2/9, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập tại Quảng trường Ba Đình, nhân dân ta thực hiện được ước nguyện từ ngàn đời - sống trong một đất nước có tự do, có chủ quyền, dù phía trước đương nhiên còn nhiều bề bộn.

Sau Cách mạng tháng Tám, tên nước ta là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nghĩa là theo thể chế cộng hòa, xây dựng trên một nền quyền lực thuộc về nhân dân, gọi là dân chủ. Ba tiêu ngữ để chỉ thuộc tính của chính quyền cách mạng mới là Độc lập - khẳng định quyền tự quyết của đất nước; Tự do - nói tới môi trường xã hội và Hạnh phúc - thứ mà chính quyền cam kết mang lại cho người dân.

Từ khi thành lập nước đến nay, tiêu ngữ ngày không hề thay đổi. Bởi đó là thuộc tính, tính chất của chính quyền Cách mạng, đồng thời cũng là sự cam kết của chính quyền cách mạng đối với nhân dân.

Dân tộc Việt Nam luôn được coi là một dân tộc kiên cường. Thế nhưng, tới thế kỷ XIX, chúng ta đã mất hết: mất tên, mất chính quyền, mất tự do, mất tài nguyên, khoáng sản, … Do đó, ý nghĩa đầu tiên của Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2/9/1945 là khơi lại ước nguyện ngàn đời của người Việt, rằng được sống trong tự do, độc lập. Với truyền thống dựng nước và giữ nước ngàn năm, điều đó lớn lao và quý giá vô cùng. Chúng ta đã lấy lại độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tuyên bố “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Đây không chỉ là câu chuyện của một thời đại – đó là ước nguyện ngàn đời của người Việt.

Thứ hai, việc chúng ta giành độc lập ở thế kỷ XX khác xa với nội hàm độc lập đã mất đi của Thế kỷ XIX. Trước kia, nền độc lập ấy nằm trong tay một vương triều. Nền độc lập ấy đã bị nhà cải cách Nguyễn Trường Tộ phê phán chua xót trong một bản tấu chương:Thần đi khắp thế giới chthấy nước An Nam ta ly kỳ đệ nhất, đóng cửa tự hào, coi thường thiên hạ”.

Phải đến gần 100 năm sau tới giữa thế kỷ XX, độc lập ấy thuộc về nhân dân, tự do là của nhân dân. Với tầm nhìn xuyên thế kỷ, vượt đại dương, Bác Hồ mới chỉ ra ta không còn có thể “đóng cửa tự hào”, khi chủ nghĩa thực dân đã có lãnh thổ gần như trên tất cả các lục địa. Chúng ta phải xây dựng một quốc gia hùng cường.

Tức là, khát vọng vươn tới hùng cường, sánh vai với các cường quốc năm châu chỉ xuất hiện từ sau Cách mạng tháng Tám. Chính Cụ Hồ là người nhìn ra điều đó.

Lịch sử dân tộc ta là một hành trình không ngừng "dựng nước" đi đôi với "giữ nước". Theo ông, trong giai đoạn hòa bình hiện nay, chúng ta đang "dựng" những gì và phải "giữ" những gì làm nền tảng cho sự trường tồn?

- Trong thời chiến tranh sẽ thấy kẻ thù rất rõ ràng, có thể gọi tên, nhìn thấy. Nhưng trong thời bình, những nguy cơ đe dọa đến chủ quyền, đến sự cố kết quốc gia, đến đạo lý xã hội… thường ẩn hiện, không dễ phát hiện, lại càng không dễ xử lý nếu thiếu bản lĩnh và tầm nhìn. Trong thời bình, mọi người quan tâm nhiều hơn đến lợi ích riêng, thậm chí xuất hiện “lợi ích nhóm”, “chủ nghĩa tư bản thân hữu”.

Theo tôi, cái cần giữ trước tiên là niềm tin xã hội. Đó là sự gắn kết các tầng lớp, các nhóm lợi ích, các thế hệ. Khi lòng tin bị xói mòn, do bất công, do tham nhũng, do sự mập mờ của quyền lực, nguy cơ mất nước không đến từ bên ngoài, mà từ sự rạn vỡ bên trong.

Điều cần giữ thứ hai là bản sắc và giá trị sống của dân tộc. Trong thời chiến, chúng ta khẳng định bản sắc ấy bằng lòng yêu nước, tinh thần hy sinh, ý chí quật cường. Trong thời bình, bản sắc ấy cần được làm sâu sắc qua cách ứng xử với phát triển, với hội nhập, biết tiếp thu cái mới nhưng không đánh mất căn cốt văn hóa, đạo lý, sự liêm chính và tự trọng.

Trong các tác phẩm của mình, ông thường khắc họa hình ảnh đất nước và con người Việt Nam như thế nào? Văn học có thể đóng góp gì trong việc bồi đắp tinh thần yêu nước và ý thức dân tộc cho thế hệ trẻ?

- Là một nhà thơ, nhà báo đã dành cả đời để viết, tôi viết về chiến tranh, viết về hòa bình và hơn hết là viết về đất nước và con người Việt Nam. Có một ký ức mà tôi không thể nào quên, đó là ngày tôi nhập ngũ năm 1972. Đấy là giai đoạn cách mạng miền Nam vừa qua Chiến dịch Thành cổ 81 ngày đêm, ở miền Bắc chúng ta vừa làm nên một “Điện Biên Phủ trên không”, Mỹ buộc phải ngồi vào bàn đàm phán Paris. Hay nói cách khác, tôi đã trở thành người lính "lái máy húc", mở đường cho một giai đoạn mới của đất nước.

Ngày lên đường, cả làng bịn rịn. Mẹ tôi đưa cho 5 hào, tiễn ra đến đầu ngõ rồi quay vào, không dám bước ra đường vì sợ không cầm được nước mắt. Sự hy sinh thầm lặng của những người mẹ, những người nông dân chất phác, chắt chiu, đã góp phần làm nên sự trường tồn của đất nước. Chính những con người bình dị ấy là mạch nguồn của sức mạnh dân tộc. Và bản sắc mỗi làng quê như con dấu chìm vào da vào thịt, thậm chí nó chìm sâu vào xương cốt nơi mỗi con người làng quê. Đó là văn hóa làng và làng thành tố giúp đất nước bền chặt.

Trong thời đại toàn cầu hóa, nhiều người Việt Nam đi khắp thế giới. Nhưng đi đâu, làm gì, người ta vẫn nhớ về Tổ quốc, bởi quê hương chính là đất nước. Như trước đây tôi từng viết bài về Tiến sĩ Luật học Ngô Bá Thành, khi được hỏi quê ở đâu, bà chỉ trả lời: "Quê hương tôi là Việt Nam!". Câu nói ấy như một lời khẳng định đầy tự hào, rằng tình yêu quê hương không chỉ gói gọn ở một vùng đất, một làng quê, mà đã mở rộng ra thành tình yêu đất nước thiêng liêng.

Từ một đất nước "sáng chắn bão giông, chiều ngăn nắng lửa" đến thời kỳ hòa bình, hội nhập hôm nay, đất nước Việt Nam vươn mình mạnh mẽ. Với tôi, để làm được điều đó, mỗi người cần có một tình yêu lớn lao với đất nước, phục sự bằng tri thức, tấm lòng và bản lĩnh. Bởi lẽ, tình yêu đó sẽ quyết định thái độ sống, trách nhiệm và sự cống hiến của mỗi người. Trong không gian rộng lớn này, quê hương không chỉ là nơi ta sinh ra, mà chính là đất nước Việt Nam thân yêu, là máu thịt của mỗi người dân Việt.

Nếu tổ tiên ta tạo ra cú huých bằng ý chí độc lập, thì theo anh, thế hệ trẻ phải tạo ra cú huých bằng sức mạnh nội tại nào - công nghệ, tri thức, sáng tạo hay điều gì khác?

- Tổng Bí thư, Thủ tướng, Bộ chính trị đã khẳng định đã khẳng định, KHCN là con đường duy nhất để chúng ta thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình và vươn lên thành quốc gia phát triển. Đây cũng là con đường mà các “con rồng”, “con hổ” Châu Á như Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc đã đi và thành công. Việt Nam chúng ta hoàn toàn xứng đáng có một vị thế tương tự. Dân tộc ta đã có nghìn năm dựng nước và giữ nước, vượt qua bao cuộc chiến tranh để giành độc lập. Giờ đây, sứ mệnh của thế hệ trẻ là tạo nên một cú huých mới bằng chính sức mạnh nội tại của mình: tri thức, sáng tạo và công nghệ.

Với Bkav, chúng tôi đã nhìn thấy điều này từ 24 năm trước. Ngay từ ngày đầu thành lập, tôi và đội ngũ Bkav đã xác định con đường duy nhất của Việt Nam là phát triển bằng công nghệ và đã kiên định theo đuổi nó. Chúng tôi đã đạt nhiều thành tựu đáng tự hào: Năm 2010, Bkav đạt chứng chỉ quốc tế VB100, lọt top 3 thế giới về diệt virus. Năm 2023, Bkav trở thành hãng duy nhất tại Việt Nam đạt chứng chỉ AV-TEST danh giá. Trong an ninh mạng, chúng tôi thuộc tốp hàng đầu thế giới, từng tham gia xử lý các vụ tấn công vào website chính phủ Mỹ, Hàn Quốc, và là bên đầu tiên tìm ra nguồn gốc vụ tấn công này. Chúng tôi cũng là một trong những đơn vị đưa AI lên camera của smartphone đầu tiên trên thế giới.

Rõ ràng ngay như Bkav đã làm được như vậy mà vẫn còn nhiều khó khăn thì tôi mới nhận ra cần phải thay đổi nhiều thứ về mặt pháp luật, thể chế, chính sách. Bộ Chính trị cũng đã nhìn thấy vấn đề này và đang tháo gỡ những “điểm nghẽn của điểm nghẽn” để giải phóng sức mạnh của toàn xã hội.

Tại Diễn đàn Kinh tế Việt Nam 2025, tôi đã chia sẻ rằng chúng ta cần một “Khoán 10” mới cho nền kinh tế. Khoán 10 năm 1988 đã chỉ sau một văn bản nghị quyết mà biến nước ta từ một nước có hơn 2 triệu người thiếu đói thành quốc gia xuất khẩu gạo thứ 3 thế giới. Tôi tin rằng, nếu có một “Khoán 10” trong KHCN, định nghĩ lại và thay đổi mối quan hệ sản xuất thì sẽ tạo ra sự bứt phá như “khoán 10” trong nông nghiệp trước đây.

Hiện nay, có một thực trạng đáng lo ngại: doanh nghiệp nhà nước đang cạnh tranh trực tiếp với doanh nghiệp tư nhân trong nhiều lĩnh vực. Cách làm này không chỉ gây méo mó thị trường, mà còn triệt tiêu sức mạnh dân tộc khi khu vực kinh tế tư nhân – động lực sáng tạo và hội nhập – bị kìm hãm. Để bứt phá, cần một cuộc cải cách triệt để như “khoán 10” trước đây. Giống như khi hợp tác xã làm thay người dân, năng suất trì trệ; nhưng sau khoán 10, người dân chủ động canh tác và tạo ra năng suất vượt trội. Tương tự, nếu doanh nghiệp nhà nước tập trung vào các nhiệm vụ chiến lược, các vấn đề an ninh, quốc phòng, an sinh xã hội, còn để doanh nghiệp tư nhân tự do cạnh tranh, chúng ta sẽ phát huy tối đa tiềm lực quốc gia. Khi đó, Việt Nam có thể trở thành một nước phát triển hàng đầu thế giới.

Chủ quyền quốc gia ngày nay không chỉ được đo bằng đường biên giới lãnh thổ, mà còn bằng chủ quyền công nghệ, chủ quyền tri thức và chủ quyền văn hóa. Anh đánh giá thế nào v"sức mạnh mềm" này của Việt Nam trên bản đồ thế giới?

- Ngày nay, không gian mạng được xem là không gian thứ năm của nhân loại, bên cạnh vùng đất, vùng biển, vùng trời và vũ trụ. Trong thế giới phẳng này, quốc gia nào lan tỏa được công nghệ, văn hóa, tri thức đến đâu thì biên giới sẽ mở rộng đến đó. Vì vậy, câu hỏi về “sức mạnh mềm” là vô cùng đúng và quan trọng.

Việt Nam có tiềm lực rất lớn để khẳng định vị thế của mình, không chỉ ở không gian truyền thống mà cả trong không gian mạng. Chúng ta có dân số đông, nguồn lực dồi dào, con người tài năng. Trong bối cảnh cạnh tranh địa chính trị đang diễn ra gay gắt giữa các cường quốc, chỉ có sức mạnh - bao gồm cả sức mạnh cứng và sức mạnh mềm - mới giúp chúng ta bảo vệ được chủ quyền quốc gia.

Tôi luôn tin tưởng người Việt Nam có thể tạo ra sức mạnh mềm tầm thế giới. Câu chuyện về Gen AI với đặc thù là Chat GPT được ví như việc tìm ra lửa khi đang thay đổi nhân loại hiện nay, thì người Việt Nam là Lê Viết Quốc và Lương Mạnh Thắng đã đóng góp 2 trong số 4 công nghệ quan trọng nhất để tạo ra Chat GPT nói riêng và công nghệ về Gen AI nói chung. Mới đây, Đại học Thanh Hoa công bố bảng xếp hạng 2000 nhà khoa học hàng đầu thế giới về AI, Lê Viết Quốc đứng số 1.

Quay ngược về lịch sử công nghệ, kỹ sư người Pháp gốc Việt Trương Trọng Thi là người tạo ra Micral N, chiếc máy tính thương mại đầu tiên trên thế giới sử dụng bộ vi xử lý, được Bảo tàng Lịch sử Máy tính ở Boston công nhận.

Và còn rất nhiều những câu chuyện tương tự như vậy về trí tuệ của người Việt. Những câu chuyện đó cho thấy, trí tuệ Việt Nam đã và đang đóng góp cho sự thay đổi của nhân loại. Nếu chúng ta kết hợp được nguồn lực con người, công nghệ và văn hóa, cùng với quyết tâm mạnh mẽ từ Đảng, Chính phủ và Bộ Chính trị, tôi tin rằng Việt Nam sẽ trở thành một cường quốc công nghệ và sở hữu sức mạnh mềm đáng nể trên bản đồ thế giới.

Tinh thần "Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh" của cha anh đi trước được kế thừa và biến đổi như thế nào trong tư duy của những người lính trẻ hôm nay, khi mà sự hy sinh không nhất thiết phải là tính mạng?

- Là một người lính trẻ hôm nay, tôi luôn ghi lòng tạc dạ tinh thần "Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh" của cha anh đi trước – những người đã ngã xuống để bảo vệ từng tấc đất thiêng liêng của dân tộc. Họ chiến đấu bằng cả trái tim và sinh mạng, để hôm nay đất nước được hòa bình, độc lập. Trong thời bình, tinh thần ấy không hề phai nhạt, mà được kế thừa và chuyển hóa thành một ý chí mới – đó là sự sẵn sàng hy sinh thầm lặng, không ngại gian khổ, luôn đặt Tổ quốc và nhân dân lên trên hết.

Những người lính trẻ hôm nay hiểu rằng, hy sinh không chỉ là mất đi tính mạng, mà còn là sự cống hiến âm thầm, là việc dũng cảm đối diện với khó khăn, hiểm nguy trên những mặt trận mới. Tiêu biểu cho tinh thần đó chính là những chiến sĩ biên phòng – những người ngày đêm canh giữ nơi đầu sóng ngọn gió, bảo vệ vững chắc từng đường biên, cột mốc của Tổ quốc. Họ không chỉ đối mặt với thời tiết khắc nghiệt, địa hình hiểm trở, mà còn phải thường xuyên đấu tranh với các loại tội phạm, giữ gìn an ninh, trật tự khu vực biên giới. Dù nơi đóng quân là rừng sâu núi cao hay hải đảo xa xôi, họ vẫn giữ vững lời thề sắt son với Tổ quốc.

Chúng tôi – những người lính hôm nay – tiếp bước cha anh, bằng cách rèn luyện bản lĩnh chính trị, làm chủ kỹ thuật hiện đại, sống có kỷ luật, sẵn sàng nhận mọi nhiệm vụ, từ tham gia phòng chống thiên tai, dịch bệnh, đến góp phần phát triển kinh tế – xã hội nơi biên cương. Đó chính là hình ảnh mới của “quyết tử” trong thời đại hòa bình – hy sinh lặng lẽ để Tổ quốc mãi trường tồn, nhân dân được bình yên.

Người lính thời bình không chỉ cầm súng canh giữ biên cương, mà còn phải đối mặt với những "mặt trận" mới như an ninh mạng, an ninh kinh tế, văn hóa. Anh cảm nhận thế nào về sự mở rộng của khái niệm "chiến trường" và "kẻ thù" trong thời đại ngày nay?

- Là một người lính thời bình, tôi nhận thấy rằng “chiến trường” và “kẻ thù” trong thời đại hôm nay đã không còn đơn thuần là nơi có tiếng súng, hay là kẻ thù mang quân phục đối diện trực diện như trong chiến tranh truyền thống. Thay vào đó, đó là những mặt trận mới – vô hình nhưng không kém phần nguy hiểm: an ninh mạng, an ninh kinh tế, an ninh văn hóa – nơi mỗi người lính phải vừa có trái tim vững vàng, vừa có trí tuệ, bản lĩnh và tinh thần cảnh giác cao độ.

Chiến trường bây giờ có thể là một không gian mạng – nơi chỉ một lỗ hổng nhỏ về bảo mật cũng có thể ảnh hưởng đến chủ quyền quốc gia, đến bí mật quân sự, kinh tế và thậm chí là niềm tin của nhân dân. Kẻ thù có thể là những dòng mã độc, là thông tin sai lệch, xuyên tạc lịch sử, kích động chia rẽ, đánh vào lòng yêu nước và ý chí dân tộc. Trên mặt trận kinh tế, đó là những chiêu trò thâm độc của các thế lực lợi dụng hội nhập để thao túng thị trường, gây rối loạn tài chính, đánh vào nền tảng tự chủ quốc gia. Trên mặt trận văn hóa, kẻ thù lại núp bóng dưới những trào lưu, xu hướng độc hại làm mai một truyền thống, lai tạp giá trị, khiến giới trẻ dễ lạc hướng, xa rời cội nguồn.

Trong bối cảnh đó, người lính không chỉ cần súng đạn mà cần cả tri thức, kỹ năng công nghệ, khả năng phản biện, tư duy chiến lược và sự tỉnh táo trước mọi luồng thông tin. Chúng tôi hiểu rằng, bảo vệ Tổ quốc ngày nay không chỉ là giữ đất, giữ trời, mà còn là giữ lấy không gian mạng an toàn, giữ lấy bản sắc văn hóa, gìn giữ chủ quyền trong từng quyết sách phát triển. Vì vậy, dù chiến trường có mở rộng, kẻ thù có biến hóa tinh vi đến đâu, người lính vẫn mang trong mình sứ mệnh thiêng liêng: luôn đứng nơi tuyến đầu – không chỉ bằng súng, mà bằng tri thức, kỷ luật, lòng trung thành và tinh thần cống hiến cho Tổ quốc.

Với ngư dân, con tàu và mẻ lưới không chỉ là kế sinh nhai mà còn là sự "khẳng định chủ quyền sống động". Điều gì trong những chuyến ra khơi ấy khiến anh cảm thấy mình không chỉ là một người đánh cá, mà là một "người lính" thực thụ?

- Các bạn cứ ra khơi cùng bọn tôi một chuyến thì sẽ hiểu. Cái cảm giác "là người lính" không phút chốc mà có, nó thấm từng ngày, từng đêm, từng hơi thở mặn chát của biển khơi.

Những người dân đi biển chúng tôi ai cũng treo một lá cờ trên thuyền. Đó không phải để trang trí. Gió biển thổi mạnh lắm, nhiều khi bão giật, nhưng lá cờ lúc nào cũng phải tung bay. Mỗi lần nhìn lên, thấy cờ phấp phới giữa trời nước mênh mông, lòng tôi lại nghĩ: "À, mình không cô độc. Mình đang mang cả quốc thể của dân tộc ra đây. Tàu mình ở đâu, lãnh hải mình ở đó". Lính biên phòng giữ cờ trên đảo, còn chúng tôi giữ cờ trên biển.

Chúng tôi đánh cá ở ngư trường truyền thống của ông cha, nơi mà tổ tiên đã đánh bắt từ nhiều năm nay. Có những vùng biển xa, đi mấy ngày mới tới, như Hoàng Sa, Trường Sa. Chỉ cần có mặt ở đó, thả lưới, bắt cá, là chúng tôi đã đang nói với thiên hạ rằng: "Vùng biển này có chủ. Chủ nhân của nó là ngư dân Việt Nam chúng tôi".

Giữa biển khơi, chúng tôi coi nhau như anh em một nhà. Gặp sóng to gió lớn, tàu hỏng máy, hay gặp sự cố, một tiếng kêu cứu là hàng chục tàu bạn sẵn sàng lao tới... Đó là tinh thần của đồng đội. Chúng tôi là một đội quân không vũ trang.

Có những người bạn của tôi đã ra đi và không bao giờ trở về. Họ ngã xuống ngay trên "mặt trận" không tiếng súng ấy, để bảo vệ ngư trường, bảo vệ con tàu – cũng là bảo vệ từng tấc biển thiêng liêng của Tổ quốc. Sự hy sinh đó, chẳng khác gì những người lính ngoài hải đảo. Cho nên, nói chúng tôi là những người lính của biển, chúng tôi tự hào về điều đó lắm.

Khát vọng dân tộc được viết nên từ những hy sinh trong quá khứ, vậy theo em khát vọng cá nhân của thế hệ trẻ ngày nay nên được định hình và hòa nhập như thế nào để cùng gánh vác sứ mệnh, không phụ lòng các thế hệ đi trước?

- Trong hành trình trăm năm mà các bậc tiền nhân đã khởi xướng, chúng ta đang sống trong một giai đoạn đặc biệt của lịch sử, khi công nghệ phát triển với tốc độ chưa từng có, khi khoảng cách giữa các quốc gia được thu hẹp bởi tri thức, và khi khát vọng vươn lên mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Nhìn lại hành trình trăm năm mà các thế hệ đi trước đã mở lối, tôi thấy mình đang đứng ở một chặng đường đầy thử thách nhưng cũng chan chứa cơ hội. Họ đã xây dựng nền móng, còn chúng ta là những người viết tiếp câu chuyện, mang trong mình trách nhiệm thắp lên những giá trị mới.

Với tôi, đó là tinh thần học hỏi không ngừng, sáng tạo không giới hạn và dấn thân để tạo ra giá trị. Trong kỷ nguyên mà tri thức được chia sẻ toàn cầu, người trẻ Việt Nam không chỉ học để giỏi hơn chính mình hôm qua, mà còn học để cùng đất nước bước xa hơn, mạnh hơn.

Những giá trị mà tôi muốn mang theo trên hành trình “chạy tiếp sức” chính là sự cầu thị, bản lĩnh đổi mới, và khát vọng hội nhập, để những bước chân hôm nay xứng đáng với những hy sinh của thế hệ đi trước. Để “sánh vai với các cường quốc năm châu” như Bác Hồ từng kỳ vọng, tôi tin một công dân Việt Nam là công dân toàn cầu trước hết phải hiểu và tự hào về cội nguồn của mình, đồng thời cũng sẵn sàng hội nhập đón nhận những tinh hoa của thế giới. Đó là người dám nghĩ lớn, biết ứng dụng công nghệ như một công cụ tạo ra đột phá, đồng thời giữ được sự nhân văn, trách nhiệm và bản sắc Việt Nam trong từng lựa chọn.

Điều em muốn khẳng định với thế giới về một Việt Nam hiện nay sẽ là gì?

- Tôi muốn khẳng định: “Việt Nam — một đất nước hội nhập, sáng tạo và trách nhiệm - sẵn sàng chung tay cùng thế giới kiến tạo tương lai”. Đó không chỉ là một tuyên ngôn với thế giới, mà còn là lời nhắc nhở chính thế hệ chúng ta: hội nhập không có nghĩa là hòa tan, mà là khẳng định bản sắc Việt Nam trong một thế giới đầy biến động và cơ hội.

Để "sánh vai với các cường quốc năm châu" như sinh thời Bác Hồ kỳ vọng, chúng ta cần những công dân toàn cầu mang trong mình bản sắc Việt Nam. Theo em, một công dân toàn cầu Việt Nam cần những phẩm chất nào?

- Thế hệ hôm nay đang đứng ở một chặng đường quan trọng, nơi chúng ta có thể vừa kế thừa thành tựu của cha ông, vừa mở ra những con đường mới cho tương lai. Tôi tin rằng để không phụ lòng các thế hệ đi trước, thế hệ trẻ như tôi cần trở thành một người "chạy tiếp sức" với 3 giá trị cốt lõi: đam mê, đổi mới và trách nhiệm. Đam mê trong lĩnh vực và nghiên cứu Toán học sẽ là ngọn lửa thắp lên tinh thần không ngừng học hỏi và cống hiến. Đổi mới giúp ta tìm ra những cách tiếp cận mới, giải pháp đột phá để ứng dựng Toán học tại quê hương. Cuối cùng, trách nhiệm với thế hệ trẻ, với tương lai bền vững của đất nước sẽ là kim chỉ nam để tôi hành động một cách đúng đắn và hiệu quả.

Theo tôi, một công dân toàn cầu Việt Nam cần có bản lĩnh tự lực, tự cường vượt qua mọi khó khăn, thách thức để không ngừng vươn lên khẳng định vị thế của bản thân nói riêng và đất nước nói chung. Phải có tri thức và khả thăng thích ứng để không ngừng học hỏi các kiến thức, cách làm mới nhất của thế giới, đồng thời biết ứng dụng linh hoạt vào bối cảnh văn hoá, xã hội Việt Nam.

Thế hệ công dân toàn cầu trẻ phải có lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc và có tinh thần hợp tác quốc tế để sẵn sàng học hỏi, cùng nhau tạo ra những giá trị chung, giải quyết các vấn đề toàn cầu.

“Tôi vừa xem phim “Mưa đỏ” của nữ đạo diễn Đặng Thái Huyền do Điện ảnh Quân đội vừa sản xuất nói về cuộc chiến đấu 81 ngày đêm bảo vệ Thành cổ Quảng Trị cách đây hơn 50 năm. Một cuộc chiến đẫm máu khốc liệt chưa từng được phản ảnh trên màn ảnh Việt Nam. Nhiều người xem không cầm được nước mắt xót xa về cái giá phải trả cho chiến thắng là quá sức tưởng tượng.

Đó mới chỉ là 81 ngày đêm! Cuộc chiến đấu của quân dân ta diễn ra tám thập kỷ qua không thể nào tính hết cái giá phải trả bằng xương máu của các chiến sỹ ngoài mặt trận, mà đại đa số là con em nông dân, ra đi từ lũy tre làng.

Tôi tuy không sinh trưởng ở nông thôn nhưng trái tim tôi nằm ở nông thôn, bên cạnh những người nông dân. Tôi cảm thông với những khó khăn, thiệt thòi, những nỗi đau của họ và đã làm nhiều phim về họ trong chiến tranh cũng như thời bình. Đó là những phim như: “Bao giờ cho đến tháng Mười”, “Thương nhớ đông quê”, hay gần đây như “Hoa nhài” - bộ phim cuối cùng của tôi cũng nói về thân phận người nông dân. Bây giờ nhiều người ở nông thôn ra thành phố làm ăn, sinh sống, ranh giới nông thôn và thành thị dần dần bị xóa nhòa, nên có thể nói trong mỗi người Việt Nam đều có một người nông dân”.