Nếu chiếu theo Đại Việt sử ký toàn thư, quốc hiệu đầu tiên của nước ta không phải là Văn Lang mà là Xích Quỷ.
Những quốc hiệu buổi đầu của lịch sử
Sách này viết rằng: “Xưa cháu ba đời của Viêm Đế họ Thần Nông là Đế Minh sinh ra Đế Nghi, sau Đế Minh nhân đi tuần phương Nam, đến Ngũ Lĩnh lấy con gái Vụ Tiên, sinh ra vua Kinh Dương Vương.
Vua là bậc thánh trí thông minh, Đế Minh rất yêu quý, muốn cho nối ngôi. Vua cố nhường cho anh, không dám vâng mệnh. Đế Minh mới lập Đế Nghi là con nối ngôi, cai quản phương Bắc, phong cho vua làm Kinh Dương Vương, cai quản phương Nam, gọi là nước Xích Quỷ”.
Tuy nhiên, theo các nhà sử học, đó chỉ là câu chuyện truyền thuyết không có thật. Các di chỉ khảo cổ học cho rằng quốc hiệu đầu tiên của nước ta trong buổi đầu lịch sử.
Văn Lang tồn tại từ khoảng thế kỷ VII đến năm 257 TCN, được coi là quốc hiệu đầu tiên của nước ta. Kinh đô Văn Lang đặt ở Phong Châu (nay thuộc tỉnh Phú Thọ), lãnh thổ gồm khu vực Đồng bằng Bắc Bộ và ba tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh bây giờ. Nhà nước Văn Lang được cai trị bởi các vua Hùng.
Sau Văn Lang là quốc gia Âu Lạc (năm 257 TCN - đầu thế kỷ thứ II TCN) được dựng lên từ liên kết các bộ lạc Lạc Việt (Văn Lang) và Âu Việt, dưới uy thế của Thục Phán An Dương Vương. Nhà nước Âu Lạc bị tiêu diệt khi vua An Dương Vương thất thủ bởi mưu kế của Trọng Thủy và Triệu Đà.
Trong thời Bắc thuộc, nước ta chỉ có một quốc hiệu duy nhất là Vạn Xuân. Nước Vạn Xuân được thành lập năm 544 khi cuộc khởi nghĩa của Lý Bí (Lế Nam Đế) giành được thắng lợi.
Tuy đây là quốc hiệu của nước ta chỉ trong một thời kỳ độc lập ngắn ngủi, nó đã khẳng định niềm tự tôn dân tộc, tinh thần độc lập và mong muốn đất nước được bền vững muôn đời.
Quốc hiệu nước ta thời phong kiến độc lập
Trong thời phong kiến độc lập, nước ta có nhiều quốc hiệu khác nhau. Trong đó, quốc hiệu Đại Việt tồn tại lâu nhất.
Bìa sách Quốc hiệu Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử của Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia.
Quốc hiệu nước ta trong kỷ nguyên độc lập là Đại Cồ Việt (968-1054) có từ Triều Đinh (968-979), Tiền Lê (980-1009) và đầu Triều Lý (1010-1054).
Sau Đại Cồ Việt là Đại Việt (1054-1804), là quốc hiệu do vua Lý Thánh Tông đặt sau khi lên ngôi, đến năm 1804, trải qua các vương triều Lý, Trần, Lê, Mạc và Tây Sơn, khoảng 743 năm.
Đại Ngu (1400-1407) là quốc hiệu của nước ta riêng thời nhà Hồ, được Hồ Quý Ly đặt sau khi phế Trần Thiếu Đế và lên nắm quyền. Chữ Ngu ở đây có nghĩa là “sự yên vui, hòa bình”.
Quốc hiệu Việt Nam có từ khi nào?
Việt Nam là quốc hiệu xuất hiện vào năm 1804 dưới thời vua Gia Long thời Nguyễn. Ban đầu, vua Gia Long đề nghị nhà Thanh công nhận quốc hiệu Nam Việt, với lý lẽ rằng “Nam” có ý nghĩa “An Nam” còn “Việt” có ý nghĩa “Việt Thường”.
Sau đó, Nam Việt được đổi thành Việt Nam và chính thức tuyên phong quốc hiệu này năm 1804.
Đến thời Minh Mạng, nhà vua lại đổi quốc hiệu nước ta thành Đại Nam vào năm 1838. Dù vậy, hai tiếng “Việt Nam” vẫn được sử dụng rộng rãi trong các tác phẩm văn học, trong nhiều giao dịch dân sự và quan hệ xã hội đương thời.
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là quốc hiệu được Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố trước đồng bào và cả thế giới vào ngày 2.9.1945 khi Bác đọc Tuyên ngôn Độc lập.
Đến ngày 2.7.1976, tại kỳ họp thứ nhất của Quốc hội khóa VI, Đảng ta quyết định đổi tên thành Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
Nguyễn Thanh Điệp (Zing)
Vui lòng nhập nội dung bình luận.