Tổng Bí thư, Chủ tịch nước gửi vòng hoa viếng Đại tướng Lê Đức Anh

Lương Kết Thứ sáu, ngày 03/05/2019 07:23 AM (GMT+7)
Sáng nay (3.5) tại Nhà Tang lễ Quốc gia số 5 Trần Thánh Tông diễn ra Lễ viếng và truy điệu Đại tướng, nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh.
Bình luận 0

img

Đại tướng, nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh. (Đồ họa: Việt Anh)

Theo thông báo, 7 giờ đến 11 giờ hôm nay (3.5) diễn ra Lễ viếng Đại tướng, nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh. Linh cữu Đại tướng Lê Đức Anh quàn tại Nhà Tang lễ Quốc gia số 5 Trần Thánh Tông, Hà Nội. Lễ truy điệu Đại tướng Lê Đức Anh từ 11 giờ cùng ngày 3.5, tại Nhà Tang lễ Quốc gia số 5 Trần Thánh Tông, Hà Nội.

img

Vòng hoa của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng viếng Đại tướng, nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh. (Ảnh: P.V)

Lễ an táng từ 17 giờ cùng ngày 3.5 tại Nghĩa trang TP Hồ Chí Minh. Cùng thời gian này, tại Hội trường Thống Nhất TP.HCM, tại Hội trường UBND tỉnh Thừa Thiên Huế cũng tổ chức Lễ viếng, Lễ truy điệu Đại tướng Lê Đức Anh.

img

Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc và Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân tại lễ viếng Đại tướng, nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh. (Ảnh: Lê Hiếu)

Sáng nay, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng, Trưởng Ban Lễ tang Đại tướng Lê Đức Anh đã có vòng hoa viếng Đại tướng, nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh.

Đại tướng Lê Đức Anh (bí danh Nguyễn Phú Hòa; Sáu Nam), sinh ngày 1.12.1920; quê quán: Xã Lộc An, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế; thường trú tại số nhà 5A Hoàng Diệu, phường Quán Thánh, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội. Đồng chí tham gia hoạt động cách mạng năm 1937; vào Đảng tháng 5.1938.

Năm 1937, ông tham gia phong trào dân chủ ở Phú Vang (tỉnh Thừa Thiên Huế); tháng 5.1938, đồng chí được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương.

Năm 1939 - 1943, địch khủng bố mạnh, mất liên lạc, ông vào Hội An, Đà Lạt, Lộc Ninh, Thủ Dầu Một tham gia hoạt động trong các hội Ái hữu.

Tháng 3.1944, ông bắt liên lạc được với tổ chức và được giao nhiệm vụ hoạt động trong các nghiệp đoàn cao su ở Lộc Ninh, Quảng Lợi, Xa Can, Xa Cát.

Đầu năm 1945, ông được giao nhiệm vụ tổ chức lực lượng trung kiên trong các nghiệp đoàn, chuẩn bị đấu tranh võ trang.

Tháng 8.1945, đồng chí được phân công phụ trách chỉ huy khởi nghĩa giành chính quyền ở các đồn điền cao su và hai huyện Hớn Quản, Bù Đốp, tỉnh Bình Phước.

Thời gian này, đồng chí tham gia Quân đội, chỉ huy giành chính quyền ở Lộc Ninh, tham gia tỉnh uỷ lâm thời, phụ trách quân sự phía Bắc tỉnh Thủ Dầu Một.

Tháng 11.1946 đến tháng 10.1948, ông làm Chính trị viên Chi đội 1 (sau là Trung đoàn 301), Trung đoàn Ủy viên, Tỉnh ủy viên Thủ Dầu Một.

Tháng 10.1948 đến tháng 12.1948, ông làm Tham mưu trưởng Khu 7, Quân khu Uỷ viên.

Tháng 1.1949 đến tháng 10.1949, ông làm Tham mưu trưởng Khu 8, Quân khu Uỷ viên.

Tháng 11.1949 đến tháng 5.1950, ông làm Tham mưu trưởng Quân khu Sài Gòn - Chợ lớn, Quân khu Ủy viên.

Tháng 6.1950 đến tháng 12.1950, ông làm Tham mưu trưởng Khu 7.

Tháng 1.1951, ông làm Tham mưu phó Bộ Tư lệnh Nam Bộ.

Tháng 5.1955, ông được bổ nhiệm giữ chức Phó Cục trưởng Cục Tác chiến, Bộ Tổng Tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam.

Tháng 10.1957, ông được bổ nhiệm giữ chức Cục phó thứ nhất Cục Quân lực, Bộ Tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam.

Tháng 12.1958, ông được Đảng, Nhà nước phong quân hàm Đại tá Quân đội nhân dân Việt Nam.

Tháng 8.1961, ông được bổ nhiệm giữ chức Cục trưởng Cục Quân lực, Bộ Tổng Tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam.

Tháng 8.1963, ông được bổ nhiệm giữ chức Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam.

Tháng 8.1965, ông được bổ nhiệm giữ chức Tham mưu trưởng Bộ Tư lệnh miền Nam, Uỷ viên Quân uỷ Miền.

Năm 1968, ông giữ chức Phó Tư lệnh Bộ Tư lệnh miền Nam, Uỷ viên Quân ủy Miền.

Năm 1969, ông giữ chức Tư lệnh Khu 9, Phó Bí thư Khu ủy.

Năm 1974, ông giữ chức Phó Tư lệnh Bộ Tư lệnh miền Nam, Ủy viên Quân ủy Miền. Đồng chí được Đảng, Nhà nước thăng quân hàm từ Đại tá lên Trung tướng Quân đội nhân dân Việt Nam (tháng 4.1974).

Năm 1975, ông giữ chức Phó Tư lệnh chiến dịch Hồ Chí Minh kiêm Tư lệnh cánh quân Tây Nam.

Tháng 5.1976, ông được bổ nhiệm giữ chức Tư lệnh Quân khu 9, Bí thư Quân Khu ủy.

Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV (tháng 12.1976), ông được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

Tháng 6.1978, ông được bổ nhiệm giữ chức Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu 7, Uỷ viên Thường vụ Quân uỷ Trung ương.

Tháng 01.1981, ông được Đảng, Nhà nước thăng quân hàm Thượng tướng Quân đội nhân dân Việt Nam.

Tháng 6.1981, ông được bổ nhiệm giữ chức Thứ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam tại Cam-pu-chia.

Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V (tháng 3.1982), ông được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, được Ban Chấp hành Trung ương bầu làm Ủy viên Bộ Chính trị.

Tháng 12.1984, ông được Đảng, Nhà nước thăng quân hàm Đại tướng Quân đội nhân dân Việt Nam.

Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (tháng 12.1986), ông được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, được Ban Chấp hành Trung ương bầu làm Ủy viên Bộ Chính trị, giữ chức Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam.

Tháng 2.1987, ông được bổ nhiệm giữ chức Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Phó Bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương.

Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (tháng 6/1991), ông tiếp tục được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, được Ban Chấp hành Trung ương bầu làm Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng.

Tháng 9.1992, tại Kỳ họp thứ nhất Quốc hội khoá IX, ông được bầu giữ chức Chủ tịch nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII (tháng 6.1996), ông tiếp tục được bầu lại vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng và được Ban Chấp hành Trung ương bầu vào Bộ Chính trị, làm Thường vụ Bộ Chính trị.

Tháng 12.1997, tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ tư khoá VIII, ông xin thôi tham gia Ban Chấp hành Trung ương Đảng, thôi giữ chức Chủ tịch nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, được Ban Chấp hành Trung ương Đảng suy tôn làm Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng đến tháng 4.2001.

Đại tướng Lê Đức Anh là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng các khoá IV, V, VI, VII, VIII; Bí thư Trung ương Đảng khoá VII; Uỷ viên Bộ Chính trị các khoá V, VI, VII, VIII; Thường vụ Bộ Chính trị khoá VIII; Chủ tịch nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (từ tháng 9.1992 đến tháng 12.1997); Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng (từ năm 1997 đến tháng 4.2001); Đại biểu Quốc hội các khoá VI, VIII, IX.

Do có công lao to lớn đối với sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và dân tộc, Đại tướng Lê Đức Anh được Đảng và Nhà nước tặng thưởng Huân chương Sao vàng; Huân chương Quân công hạng Nhất; Huân chương Chiến công hạng Nhất; Huy hiệu 80 năm tuổi Đảng và nhiều huân, huy chương cao quý khác của Việt Nam và quốc tế.           

Mời các bạn đồng hành cùng báo Dân Việt trên mạng xã hội Facebook để nhanh chóng cập nhật những tin tức mới và chính xác nhất.
Ý kiến của bạn
Tin cùng chuyên mục
Xem theo ngày Xem