Đồn Biên phòng Cửa khẩu Hoành Mô tọa lạc tại xã Hoành Mô (Quảng Ninh), địa bàn quản lý theo địa giới hành chính trước đây là huyện Bình Liêu (cũ). Toàn khu vực có đường biên giới hơn 40km, 21 thôn, bản giáp với nhiều địa phương của Trung Quốc.

Cách khu vực trung tâm hành chính tỉnh Quảng Ninh về hướng đông bắc hơn 100km, đồn Hoành Mô thuộc một trong những khu vực vùng sâu, vùng xa với nhiệm vụ giữ gìn 45 mốc giới, 68 cột mốc biên giới.

Đêm dân vận đáng nhớ

Một đêm tháng 7/2025, vừa thực hiện nhiệm vụ tuần tra về, ba lô, quân tư trang chưa kịp cởi, Trung tá Vi Tiến Nghiệp, Phó Chính trị viên đồn biên phòng Hoành Mô đã vồn vã xắn tay áo pha trà, rót nước mời khách.

“Đợt này đang diễn tập phòng thủ chung với nước bạn (Trung Quốc) nên đồn hơi vắng, chỉ có vài anh em trực ban, các chú thông cảm!”, Trung tá Nghiệp nói, miệng nhẻn nụ cười hiền hòa.

Tuy nhiên, ngay sau đó, chính vị Phó Chính trị viên cũng phải thừa nhận, thật ra, với đặc thù lực lượng chiến sĩ mỏng, dàn trải rộng thì đồn cũng “chả mấy khi đông”. Vùng biên giới phía đông có địa hình chia cắt, núi đồi hiểm trở, dân cư đa phần là người dân tộc thiểu số.

Do đó, trong thâm tâm của các chiến sĩ tại đồn Hoành Mô, nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ thiêng liêng không chỉ dừng lại ở hoạt động vũ trang, mà còn trong công tác dân vận, thậm chí từ những việc không tên. Mỗi người lính biên phòng được ví như những “mốc giới sống” giữa lòng núi rừng Đông Bắc.

Trung tá Nghiệp kể, ngay từ ngày đầu ra trường, vào những năm 2001, khi bắt đầu đến đồn Hoành Mô công tác, anh đã ý thức được rất rõ mục tiêu trên. Thậm chí, vào nhiều thời điểm, công tác đấu tranh phòng chống tội phạm chưa chắc đã quan trọng bằng nâng cao ý thức, trách nhiệm cho cộng đồng dân cư.

Trung tá Vi Tiến Nghiệp, Phó Chính trị viên đồn biên phòng Hoành Mô.

Vào những năm 2004, khi bắt đầu thực hiện chiến dịch xóa nhà tạm, dột nát, lực lượng biên phòng Hoành Mô được giao phối hợp, hỗ trợ các cấp chính quyền địa phương.

Gọi là hỗ trợ, nhưng nhiều khi các chiến sĩ rơi vào cảnh “phản khách vi chủ”, từng người phải làm từ những việc xây nhà dựng cột cho tới vận động, thay đổi tập quán lạc hậu mê tín của người dân.

“Thời điểm đó, địa phương còn khó khăn, lực lượng biên phòng mỏng mà phụ trách địa bàn rộng. Nhận thức của nhân dân hạn chế, phong tục tập quán lạc hậu, có lúc phải tinh ý mới phát hiện ra vấn đề, nếu không chúng tôi rất khó hoàn thành nhiệm vụ”, anh Nghiệp kể.

Năm 2004, cả huyện Bình Liêu đồng loạt xóa nhà tạm, dột nát cho người dân. Đồn Hoành Mô được phân địa bàn 54 hộ, trong đó, đa phần là sửa chữa và xây mới hoàn toàn.

Chính sách này được người dân địa phương ủng hộ cùng chung sức với lực lượng chức năng gấp rút hoàn thành các công trình nhà ở. Những tưởng công việc sẽ trôi chảy vì nhận được sự đồng thuận cao, đến những ngày nước rút, lực lượng biên phòng Hoành Mô gặp phải tình huống “trớ trêu”.

“Khi chỉ còn 7 ngày để hoàn thành toàn bộ công tác, chúng tôi khá yên tâm vì chỉ còn đúng một căn nhà còn lại. Tuy nhiên, gia đình đó lại chịu sự chi phối của hủ tục, tổ chức đi xem thầy mo phán không hợp tuổi để xây dựng, động thổ”, anh Nghiệp chia sẻ.

Công việc đang sắp hoàn thành lại gặp trở ngại, anh Nghiệp cùng các đồng đội phải đi làm công tác “dân vận” với cả thầy mo để gia đình yên tâm làm nhà. “Chiêu” sử dụng là động viên thầy mo bảo với gia đình có thể nhờ người đại diện hợp tuổi đứng tên động thổ.

Điều bất ngờ là tuy đã “động viên” được một thầy mo nhưng gia đình vẫn không tin tưởng và chuẩn bị đi sang bản khác nhờ người xem. Sau khi nhận được nguồn tin “trinh sát”, anh Nghiệp và các chiến sĩ của đồn Hoành Mô ngay trong đêm băng qua hơn 10km đường rừng phải mất hơn 3 tiếng đồng hồ bộ hành để tiếp tục làm công tác “dân vận” với thầy mo.

Lực lượng bộ đội biên phòng Hoành Mô thực hiện nghi thức chào cột mốc trong một cuộc tuần tra biên giới.

“Nó lại đi xem ở bên kia rồi! Nghe xong câu đó của người đưa tin, tôi chỉ kịp hỏi xem là nhà nào rồi lập tức phải đi sang đó ngay”, anh Nghiệp tường thuật lại khoảnh khắc nghe tin hộ gia đình đang khăn gói hành lý sang bản bên để tiếp tục xem bói.

Chỉ một câu nói đơn giản như vậy, cuộc thi “điền kinh” diễn ra trong đêm, các chiến sĩ biên phòng phải tìm đường tắt, băng qua rừng dù trắc trở hơn, mục tiêu là đến nơi trước.

Điều đáng nói, khi mới tiếp xúc, vị thầy mo bản bên cũng chưa tỏ ra thái độ hợp tác ngay. Anh Nghiệp cả đêm vừa thủ thỉ, vừa nhẹ nhàng giải thích về chính sách mang lại cơ ngơi cho người dân.

Tuy vậy, cũng có lúc phải gây áp lực, sau cuộc dân vận “mềm nắn, rắn buông” vị thầy mo cũng dần hiểu ra và hứa sẽ nói cho “đúng ý”. Đến khi hộ gia đình thuộc đối tượng cải tạo nhà đến, thầy mo đã xem đúng ngày được cán bộ “dặn” và truyền đạt lại.

Nắm lương khô “giải cứu” đoàn bộ đội biên phòng

Quá trình đào tạo trên ghế giảng đường cũng như trong quân ngũ, anh Nghiệp cho biết, mỗi chiến sĩ đều được học các lý luận chung nhất về công tác của lực lượng biên phòng, đặc biệt là vận động quần chúng..

“Khi ra công tác thực tế, tôi luôn nhớ một câu của các thầy cô: “Các anh khi vận động quần chúng không bao giờ nên nói thẳng, phải khen trước chê sau”. Đó là “bí kíp” để đời của tôi, mỗi khi thực hiện công tác, muốn “nói nặng” người dân một chút phải nhớ nói lại ngay”, anh Nghiệp cho hay.

Với đặc thù địa bàn gồm phần đông người dân tộc thiểu số sống rải rác, mỗi khi muốn vận động thay đổi tập quán đã sâu rễ, bền gốc của người dân, các chiến sĩ phải “kiêm nhiệm” chuyên gia tâm lý để hiểu tâm tư, tình cảm.

“Khi phát hiện ra điều gì trong cuộc sống như vệ sinh, an ninh trật tự chưa tốt, nếu ngay lập tức đến và chỉ trích người dân đồng bào, việc này, việc kia chưa được thì họ rất dễ bị tự ái và không rút kinh nghiệm.

Do đó, mỗi khi đến với người dân, tôi luôn đặt mình trong vị trí của quần chúng nhân dân. Có những khi chỉ là cuộc trao đổi đơn giản, tôi cũng tạo bầu không khí cuộc trò chuyện anh – em, chứ không phải là cán bộ và người dân. Phải hòa mình với quần chúng thì, chúng tôi mới có thể hoàn thành nhiệm vụ”, Trung tá Nghiệp chia sẻ.

Khi thực hiện công tác tuyên truyền, phổ biến cho đồng bào dân tộc thiểu số, người chiến sĩ biên phòng cần có sự linh hoạt trong cách ứng xử, thậm chí cùng ăn, cùng ở.

Qua đó, mối dây liên kết giữa bộ đội biên phòng với người dân tại Hoành Mô như “cá với nước”. Trong cuộc sống đời thường, các chiến sĩ hỗ trợ, bảo vệ người dân.

Tuy nhiên, cũng có những chiến công của lực lượng biên phòng ghi dấu ấn đậm nét sự phối hợp với quần chúng nhân dân. Trong ký ức của anh Nghiệp, kỷ niệm không thể quên là một lần được người dân “cứu mạng” trong đêm.

Trung tá Nghiệp (người đi đầu) phối hợp với người dân địa phương cùng thực hiện nhiệm vụ những ngày đầu công tác tại đồn biên phòng Hoành Mô.

Trong giai đoạn từ năm 2001 đến 2010, đồn biên phòng Hoành Mô được giao nhiệm vụ đi phân giới, cắm mốc biên giới Việt Nam – Trung Quốc. Trong khoảng thời gian ấy, có một lần, đoàn công tác nhận được tin trinh sát về nhóm đối tượng buôn hàng lậu quy mô lớn.

Ngay lập tức, đoàn chiến sĩ bộ đội biên phòng được lệnh chuyển hướng làm nhiệm vụ đấu tranh với tội phạm. Một đêm, đang mật phục trong rừng sâu, đoàn bộ đội gặp phải mưa.

Ai đã từng trải qua những cơn mưa rừng mới biết nó khủng khiếp đến mức độ nào. Những chốn “rừng thiêng, nước độc” vốn dĩ đã rất ám ảnh với những người yếu gan. Đặc biệt, vào ban đêm, khi sương xuống, việc di chuyển trong các khu rừng già là một thử thách thật sự đối với bất cứ ai, kể cả đối với lực lượng vũ trang được đào tạo, trang bị.

Anh Nghiệp (ngoài cùng bên phải) đi tuyên truyền, phổ biến chính sách cho đồng bào dân tộc thiểu số những năm 2002.

Trong hoàn cảnh gặp mưa đêm, từng cơn gió hắt làn nước lạnh buốt “chém” vào da thịt các chiến sĩ đang phục dưới những tán cây, mỏm đá với tinh thần “một tấc không đi, một ly không rời”.

Cơn mưa khắc nghiệt không chỉ diễn ra chớp nhoáng mà dầm dề nhiều ngày. Tuy nhiên, điều đáng sợ nhất cũng tới, đoàn chiến sĩ hết lương thực trong đêm.

“Khi đó, thông tin liên lạc khó khăn, chúng tôi đã mật phục hơn một tuần, lương thực dần cạn nhưng không có cách nào thông tin để được tiếp tế. May thay, trong lúc hoàn cảnh ngặt nghèo nhất thì gặp một số người dân bản đang đi rừng về”, anh Nghiệp bồi hồi nhớ lại.

Chỉ qua vài câu trao đổi, người dân đã trao tặng cho lực lượng đang mật phục ít lương khô, một vài con sóc nhỏ mới săn được. Số lương thực tuy không nhiều nhưng đủ để những chiến sĩ trẻ vượt qua được đêm lạnh thấu xương nơi rừng già.

“Có lẽ cả đời này, tôi sẽ không bao giờ quên, đó là bữa ăn ngon, đáng nhớ nhất trong cuộc đời. Cái đêm chúng tôi được người dân cứu mạng”, Trung tá Vi Tiến Nghiệp xúc động bày tỏ.

Tiếp nối truyền thống trấn thủ biên cương

Gia đình có truyền thống màu áo lính, người cha của Trung tá Vi Tiến Nghiệp cũng là một chiến sĩ biên phòng. Từ nhỏ, anh Nghiệp vẫn thường ngắm nhìn bộ trang phục của người cha trong quân ngũ.

Những năm khi các con còn nhỏ, gia đình khó khăn nhưng cha anh vẫn thường xuyên phải túc trực ở đồn. Giai đoạn căng thẳng biên giới leo thang, có những thời gian rất lâu anh mới được gặp cha.

Trong ký ức của người chiến sĩ đồn Hoành Mô, mỗi dịp hiếm hoy được về nhà, cha anh ngay lập tức cởi áo lính, khoác lên mình màu áo nông dân làm việc nhà. Khi đó, mặc dù còn nhỏ tuổi nhưng anh Nghiệp vẫn luôn nhận phần việc giặt giũ quân phục cho cha.

Sau khi đã giặt sạch sẽ, bộ quân phục luôn được treo ở nơi trang trọng nhất trong nhà. Khi ấy, hình ảnh bộ quân phục của người cha sờn màu thời gian nhưng vẫn ánh lên sự uy nghiêm, hùng tráng của lực lượng vũ trang là ấn tượng sâu sắc, lấp lánh trong ánh mắt thiếu niên người Tày.

Mang theo ước mơ và sự kỳ vọng của gia đình, anh Nghiệp quyết tâm đi theo lực lượng vũ trang và trở thành một chiến sĩ của đồn biên phòng Hoành Mô. Hiện tại, anh Nghiệp có một gia đình êm ấm với vợ và hai người con trai dần đến tuổi trưởng thành.

Khi được hỏi đến việc định hướng cho các con, anh Nghiệp dường như “nửa mừng, nửa lo”. Mừng vì các con đều có cảm tình với màu áo lính, nhận thức được ý nghĩa thiêng liêng của công tác bảo vệ biên cương của tổ quốc.

“Nhưng cũng lo vì cuộc sống, công việc của người lính biên phòng vất vả quá. Người làm cha mẹ nào cũng mong muốn con mình có được sống an nhàn, tránh cơ cực. Tuy thế, nếu các cháu thật lòng muốn theo nghiệp của bố thì tôi cũng rất tự hào và sẽ hỗ trợ, dạy bảo để các con hiểu được trách nhiệm của mình”, anh Nghiệp vui vẻ kể, ánh mắt hướng về phía núi rừng biên giới trập trùng.