Quân đồng minh đối xử với tù binh Đức như thế nào trong Thế chiến II?
Ở phía tây nước Đức, cách Bonn 35 km, gần thành phố Remagen, có một địa danh được gọi là Goldelen Meile (“vùng đất màu mỡ”), nằm ở tả ngạn sông Rhine.
Báo điện tử của Trung ương Hội Nông dân Việt Nam
Tổng biên tập: Nguyễn Văn Hoài
Phó Tổng Biên tập: Phan Huy Hà (Thường trực), Lưu Phan, Đỗ Thị
Sâm, Hoàng Sơn
Giấy phép số 115/GP-BTTTT cấp ngày 01/3/2022
Bản quyền thuộc về Báo điện tử Dân Việt.
Mọi hình thức sao chép lại thông tin, hình ảnh phải được sự đồng ý bằng văn bản .
Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận
Xin chào, !
Bạn đã đăng nhập với email:
Đăng xuất
Lực lượng này được xua đến tận thành Cộng Hòa – nơi được gọi là Phủ Tổng thống của chính quyền Diệm – bao vây, gây áp lực. Thế nhưng, sau khi cuộc đảo chính thành công, “chiến đoàn Vạn Kiếp” mất tăm hơi. Không ai biết “Chiến đoàn Vạn Kiếp” là đơn vị nào. Trong cái gọi là “Quân sử quân lực Việt Nam cộng hòa”, cho đến lúc khép lại trang cuối vĩnh viễn vào ngày 30/04/1975, không có trang nào nhắc đến cái phiên hiệu “Chiến đoàn Vạn Kiếp”.
Một sỹ quan đảo chính tươi cười chụp ảnh bên xác Ngô Đình Diệm.
Hơn nửa thế kỷ nay, nhiều người vẫn cho rằng, mũi tấn công chính vào thành Cộng Hòa là 2 trung đoàn thuộc Sư đoàn 5 do đại tá Nguyễn Văn Thiệu (sau này là Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu) chỉ huy. Điều này được khẳng định trong hồi ký của một số nhân vật chính yếu tham gia cuộc đảo chính. Hầu hết những nhân vật này đều dựa vào lời kể công của Nguyễn Văn Thiệu với giới truyền thông sau khi cuộc đảo chính thành công. Và điều đó trở thành một góc “lịch sử” của chế độ Việt Nam cộng hòa.
Nguyễn Văn Thiệu kể rằng, để chuẩn bị cuộc đảo chính, từ chiều ngày 31/10/1963, với tư cách là Tư lệnh Sư đoàn 5, Thiệu đã ra lệnh cho 2 trung đoàn bộ binh, 1 tiểu đoàn pháo binh và 1 chi đoàn thiết giáp dưới quyền di chuyển từ Biên Hòa đến khu vực ngã ba Vũng Tàu với lý do là chuẩn bị đi càn ở Phước Tuy (ngày nay là Bà Rịa – Vũng Tàu). Đến trưa ngày 1/11/1963, lực lượng này tiến thẳng đến thành Cộng Hòa bao vây tấn công để gây áp lực với Ngô Đình Diệm.
Từ đó, nhiều bài báo đã thống nhất tường thuật rằng, Nguyễn Văn Thiệu là người có công chỉ huy lực lượng quân sự gây áp lực mạnh nhất đối với Ngô Đình Diệm trong cuộc đảo chính lịch sử dẫn đến việc đầu hàng vô điều kiện. Trong những nguồn thông tin đó, chỉ có vài dòng nhắc phớt qua “chiến công” của Chiến đoàn Vạn Kiếp.
Tuy nhiên không ai biết và cũng không ai giải thích Chiến đoàn Vạn Kiếp là đơn vị nào trong hệ thống quân lực Việt Nam cộng hòa.
Một nhân vật tướng lĩnh tham gia cuộc đảo chính đã kể trong hồi ký rằng: “Trung tá Vĩnh Lộc chỉ huy chiến đoàn Vạn Kiếp cố tình chậm trễ, chờ đợi nghe ngóng, nếu tình hình thuận lợi mới hành động.
Mãi tới 15 giờ 45 phút, đại tá Nguyễn Văn Thiệu phải đưa sư đoàn 5 đến tăng cường triển khai tiến công. Lúc 5 giờ sáng ngày 2/11, thiết đoàn 2, chiến đoàn thiết giáp 24 và tiểu đoàn 4 thuỷ quân lục chiến do Lý Tòng Bá chỉ huy hình thành hai gọng kìm đánh vào dinh Gia Long. Bộ chỉ huy đảo chính giao cho đại tá Lâm Văn Phát làm nhiệm vụ kiểm tra, đốc chiến cuộc tiến công…
Đến 6 giờ, biết có cố gắng chống cự cũng không đạt kết quả, lực lượng bảo vệ dinh buông súng đầu hàng. Lý Tòng Bá dẫn quân vào nội cung, thì Diệm, Nhu đã bỏ trốn từ trước. Lực lượng tham gia đảo chính gồm: Tiểu đoàn 1 và 4 thuỷ quân lục chiến, Tiểu đoàn 6 nhảy dù. Thiết đoàn thiết giáp 24 (thuộc Chiến đoàn Vạn Kiếp), Sư đoàn bộ binh 5, Trung đoàn 10 và thiết đoàn 2 của sư đoàn 7 bộ binh, 1 đại đội truyền tin.
Chiến đoàn Vạn Kiếp của trung tá Vĩnh Lộc cho đến lúc ấy vẫn còn án binh bất động bên cầu Phan Thanh Giản. Khoảng 4 giờ 30 phút, khi đại tá Phát đến một căn nhà ngay ngã tư Phan Thanh Giản – Đinh Tiên Hoàng được coi như bản doanh tiền phương của sư đoàn 5 và chiến đoàn Vạn Kiếp thì lúc ấy trung tá Vĩnh Lộc chưa biết phải tiến quân như thế nào… Sĩ quan cũng như binh sĩ vẫn ngơ ngác không biết phải làm gì… chỉ thị của thượng cấp hết sức mơ hồ. Đại tá Lâm Văn Phát tạm thay đại tá Nguyễn Văn Thiệu, thống lãnh sư đoàn 5 để thanh toán dinh Gia Long và thành Cộng Hoà”.
Hầu hết những viên tướng tham gia đảo chính đều công nhận sự có mặt của chiến đoàn Vạn Kiếp nhưng không ai xác định đúng chiến đoàn đó ở đâu chui ra.
Lời kể của người trong cuộc
Ông Ph. Th. S., cư ngụ ở Gò Công, Tiền Giang, từng là sỹ quan chỉ huy một tốp binh sỹ thuộc Chiến đoàn Vạn Kiếp. Ông khẳng định Chiến đoàn Vạn Kiếp là một đơn vị hỗn hợp được thành lập “không văn tự” để thực hiện nhiệm vụ đảo chính.
Thời điểm đó ông Ph. Th. S. là sỹ quan cơ hữu mang hàm chuẩn úy, thuộc ban huấn luyện vũ khí tại Trung tâm huấn luyện Vạn Kiếp. Là một đơn vụ trực thuộc Quân đoàn 3 nên trung tâm này còn có tên gọi là Trung tâm Huấn luyện Vùng 3 Chiến thuật. Bản doanh của Trung tâm Huấn luyện Vạn Kiếp đặt ở Bà Rịa do trung tá Nguyễn Phúc Vĩnh Lộc (sau này là trung tướng của Việt Nam cộng hòa) làm chỉ huy trưởng.
Nhiệm vụ của trung tâm này là huấn luyện, đào tạo tân binh, hạ sỹ quan cho các đơn vị quân sự thuộc vùng 3 Chiến thuật, bổ túc kỹ năng chỉ huy chiến thuật cho cấp trung đội trưởng đến đại đội trưởng cho các đơn vị “đang tham chiến ở các chiến trường thuộc vùng trách nhiệm”.
Nói cách khác, những binh sỹ mang hàm hạ sỹ đến chuẩn úy nếu muốn thăng cấp phải kinh qua một khóa huấn luyện tại đây để lấy chứng chỉ. Những khóa huấn luyện này được gọi tắt là “xê xê 1” (CC1 – Từ hạ sỹ đến trung sỹ nhất) , “xê xê 2” (CC2 – Từ thượng sỹ đến thượng sỹ nhất). Vì vậy, các khóa huấn luyện “xê xê” đều là những người đã từng tham gia trận mạc, có kinh nghiệm thực tiễn chiến trường.
Một ngày đầu tháng 10/1963, tức trước khi xảy ra cuộc đảo chính 1 tháng, với tư cách là chỉ huy trưởng Trung tâm Huấn luyện Vạn Kiếp, ông Vĩnh Lộc yêu cầu các bộ phận tinh tuyển các huấn luyện viên và học viên để thành lập một đơn vị có ám danh rất lạ “ê kíp D” bao gồm một số sỹ quan huấn luyện và 1 tiểu đoàn học viên “xê xê”. Không ai biết mục đích thành lập ê kíp D để làm gì, chỉ biết rằng những ai có tên đều phải “sẵn sàng đợi lệnh hành quân đột xuất”.
Ngày 1/11/1963, ông Ph Th S và một trung úy khác (cũng thuộc ê kíp D) được phân công trực chỉ huy đơn vị lính đang tham gia khóa huấn luyện “xê xê” tại trung tâm. Sáng hôm đó, tiểu đoàn 6 thuộc binh chủng Nhảy dù đang đóng quân ở căn cứ Tam Hiệp, Biên Hòa bất ngờ xuất hiện tại Trung tâm Huấn luyện Vạn Kiếp.
Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn này là Thiếu tá Lê Văn Đặng nhưng khi về Trung tâm huấn luyện Vạn Kiếp lại thuộc quyền chỉ huy của đại úy Vũ Thế Quang – một sỹ quan huấn luyện trong “ê kíp D” của Trung tâm Huấn luyện Vạn Kiếp. (Ngày 11/03/1975, Vũ Thế Quang là sư đoàn phó sư đoàn 23 đóng quân ở Đắk Lắk bị quân ta bắt sống trong chiến dịch Tây Nguyên – 275 giải phóng Buôn Ma Thuột).
Đa số binh sỹ của tiểu đoàn này là người gốc Kh’mer miền Tây Nam Bộ, có sức khỏe tốt và liều lĩnh. Tiểu đoàn này đã từng tham gia các chiến dịch “tiễu trừ” Bình Xuyên, “triệt tiêu” lực lượng Cao Đài ly khai của Trình Minh Thế và “truy lùng” Ba Cụt (quân thổ phỉ ở miền Tây).
Đêm 1/11/1963, bất thần ông Ph. Th. S. và “ê kíp D” nhận lệnh hành quân, trực chỉ Sài Gòn. Lực lượng này được xe tải quân sự GMC chở đến đầu cầu Phan Thanh Giản, Sài Gòn (nay là cầu Điện Biên Phủ, quận Bình Thạnh, TP Hồ Chí Minh) thả xuống. Lực lượng này vượt cầu Phan Thanh Giản di chuyển theo trục đường thẳng đến trước một tiệm may trên góc đường Phan Thanh Giản – Mạc Đĩnh Chi thì được lệnh hạ trại, thiết lập bộ chỉ huy tiền phương.
Lúc đó các thành viên lực lượng này cũng chưa biết là mình đang tham gia cuộc đảo chính lịch sử mà chỉ biết mình là thành viên của Chiến đoàn Vạn Kiếp. Nhiều người nghĩ đó là cuộc diễn tập quân sự. Đến trưa ngày 2/11/1963, chi đoàn 1 Thiết giáp 24 thuộc Thiết đoàn 1 Kỵ binh do đại úy Bùi Ngươn Ngãi chỉ huy chiến đấu (nhưng dưới quyền điều phối của thiếu tá Dương Hiếu Nghĩa) cũng kéo đến sát nhập vào.
Như vậy, Chiến đoàn Vạn Kiếp là 1 lực lượng ô hợp gồm 3 đơn vị: Tiểu đoàn lính “xê xê” đang được huấn luyện tại Trung tâm Huấn luyện Vạn Kiếp do trung tá Nguyễn Phúc Vĩnh Lộc chỉ huy; Tiểu đoàn 6 binh chủng Nhảy dù do đại úy Vũ Thế Quang chỉ huy; chi đoàn 1 Thiết giáp 24 thuộc Thiết đoàn 1 Kỵ binh do đại úy Bùi Ngươn Ngãi chỉ huy.
Khoảng 4 giờ chiều thì Lâm Văn Phát (thời điểm đó là đại tá Tư lệnh phó vùng 3 Chiến thuật) xuất hiện tại bộ chỉ huy tiền phương tổ chức họp tác chiến. Nguyễn Văn Thiệu có mặt trong cuộc họp này nhưng binh sỹ của Sư đoàn 5 vẫn còn ở khu vực ngoại thành. Ông Thiệu chỉ dự họp 1 chút rồi vội vã rời đi.
Khoảng 5 giờ chiều, lực lượng Chiến đoàn Vạn Kiếp bắt đầu di chuyển về hướng thành Cộng Hòa (nay là vị trí Trường Đại học Y Dược, Đại học Khoa học – Xã hội và Nhân văn, Đài Truyền hình TP Hồ Chí Minh). Tiểu đoàn 6 Dù đi trước. Tiểu đoàn “xê xê” và thiết giáp đi sau. 3 đơn vị này không đi thẳng mà vòng theo tuyến Hai Bà Trưng, Gia Long, tiến vào đường Cường Để (Bây giờ là Tôn Đức Thắng), bao vây thành Cộng Hòa.
Trước cửa thành, 2 chiếc thiết giáp của lực lượng trung thành với Ngô Đình Diệm án ngữ. Chi đoàn Thiết giáp gồm 3 chiếc của Chiến đoàn Vạn Kiếp chạy đến đối đầu. Ông Ph Th S thấy sỹ quan trên 2 chiếc thiết giáp đối đầu trò chuyện vài phút.
Ông Ph Th S và môt số binh sỹ “xê xê” được trang bị đại liên Caliber 30, đại liên M18 (Ba càng 57 li), cối 60, cối 81 và hỏa tiễn không giật 75 li nằm nhẹp ở khoảng giữa 2 thiết giáp đang đối đầu. Ông Vĩnh Lộc cũng đứng gần đó đã hạ lệnh: “Tụi nó (lính phòng vệ Phủ Tổng thống) nhúc nhích là bắn ngay”.
Hơn 10 phút sau, cả 5 chiếc xe cùng xoay về hướng đường Nguyễn Bỉnh Khiêm chạy mất hút. Bên trong thành, lực lượng Phòng vệ Phủ Tổng thống im lặng.
Đến 5 giờ 30 phút chiều, Đài Phát thanh Sài Gòn phát đi bản thông cáo “cách mạng”. Đến lúc đó, các binh sỹ Chiến đoàn Vạn Kiếp mới biết mình đang tham gia cuộc đảo chính Ngô Đình Diệm. Ông Lâm Văn Phát ra lệnh khai hỏa.
Lính Nhảy dù chỉ được trang bị carbin M2 gọn nhẹ, không có hỏa lực mạnh nên yêu cầu lính “xê xê” bắn mở cửa để họ xông vào. Sau 2 phát khai hỏa, lính “xê xê” phá toang 2 cánh cửa sổ trong thành. Bên trong vẫn im lặng không phản ứng nên lính dù không vào.
Ông Vĩnh Lộc ra lệnh dùng súng cối và đại liên bắn vãi vào trong thành. Bắn được hơn chục phút thì binh sĩ báo cáo gần hết đạn. Ông Vĩnh Lộc gọi điện yêu cầu Bộ Tổng tham mưu đảo chính tiếp viện đạn. Bộ Tổng tham mưu cho biết chưa chiếm kho quân khí nên không có đạn. Ông Vĩnh Lộc phải điều 1 chiếc GMC vận tải trở về Bà Rịa lấy.
Khi ấy, lính dù được lệnh của Lâm Văn Phát tấn công vào thành Cộng Hòa. Lính dù xin trưng dụng ông Ph Th S đang thủ khẩu đại liên M18. Bạn của ông Ph. Th. S. là chuẩn úy Trang Thái Tòng thủ khẩu SKZ 75 li tình nguyện đi thay ông. Khi lính dù nhập thành, ông Ph Th S không nghe có tiếng súng chiến đấu.
Đến 5 giờ sáng ngày 3/11/1963, bộ phận “xê xê” mới được lệnh nhập thành. Khi vào ông Ph Th S đã thấy một số binh lính thuộc Lữ đoàn Phòng vệ Tổng thống Phủ đang bị khống chế ngồi quây quần trong sân. Ông nghe nói có một số binh sĩ phòng vệ đã đào thoát về hướng cầu Thị Nghè qua một lỗ tường thủng.
Khoảng 5 giờ 30 phút sáng ông Ph. Th. S. mới thấy binh sĩ thuộc Tiểu đoàn 9 (Sư đoàn 5 do Nguyễn Văn Thiệu làm tư lệnh) kéo đến. Tiểu đoàn này do thiếu tá Lê Nguyên Vỹ chỉ huy. Có vài chiếc thiết giáp đi kèm theo Tiểu đoàn 9 đã được lệnh ủi sập cổng thành Cộng Hòa.
Ông Ph. Th. S. khẳng định: “Lực lượng đánh chiếm thành Cộng Hòa trong cuộc đảo chính Ngô Đình Diệm năm 1963 là Chiến đoàn Vạn Kiếp. Mũi chiếm đóng đầu tiên là binh sĩ Tiểu đoàn 6 Dù, chứ không phải lực lượng của ông Thiệu. Binh sĩ của ông Thiệu chỉ xuất hiện sau khi mọi thứ đã ổn định”.
Một trong những hoạt động tình báo bí mật nhất của Cục tình báo trung ương Mỹ (CIA) vào đầu những năm 1980 của thế kỷ trước là tích cực sử dụng các con tàu ngầm vào việc thu thập thông tin quan trọng. Chúng thường xuyên xâm phạm vùng lãnh hải của Liên Xô, suýt nữa đã đột nhập vào khu vực các căn cứ hải quân.
Ở phía tây nước Đức, cách Bonn 35 km, gần thành phố Remagen, có một địa danh được gọi là Goldelen Meile (“vùng đất màu mỡ”), nằm ở tả ngạn sông Rhine.
Trong Chiến dịch Biên giới (diễn ra từ ngày 16/9 đến 14/10/1950), lần đầu tiên quân ta tiến hành vận động tiến công quy mô đại đoàn, tiêu diệt gọn các binh đoàn tinh nhuệ của địch.
Bất ngờ với dàn hậu cung của vị hoàng đế được đánh giá là đông nhất lịch sử nhà Thanh nói riêng và lịch sử Trung Hoa nói chung.
Tam quốc là thời các anh hùng xuất thế, là đài diễn của anh hùng trong thiên hạ. Mỗi người diễn một vai, mỗi người mang trong mình những tài năng vô cùng ấn tượng, có người mưu lược, võ công, oai phong lẫm liệt, trung dũng, nghĩa khí….nhưng có người luôn che dấu tài năng của mình, nhẫn chịu và chờ đợi thời cơ.
Trong cuốn lịch sử Không quân nhân dân Việt Nam có một dòng chữ giản dị: “Ngày 15 tháng 8 năm 1949, Phi công Nguyễn Đức Việt (Schuzle) đã lái chiếc máy bay Tiger Moth mang theo lá cờ đỏ sao vàng bay trên bầu trời Chiêm Hóa, Tuyên Quang”. Chỉ vỏn vẹn vài dòng chữ như vậy nhưng cuộc đời phi công hàng binh người Đức này chứa đựng bao chìm nổi, li kì và gắn với sự ra đời của lực lượng Không quân nhân dân Việt Nam thời kì trứng nước.
Chiến tranh, từ xưa đến nay không phải là một khái niệm đơn giản. Nó không chỉ liên quan đến an ninh và vận mệnh của quốc gia mà còn là một cỗ máy đốt tiền khổng lồ. Đặc biệt trong chiến tranh ngày nay, vũ khí công nghệ cao, hậu cần bảo đảm, hệ thống tình báo đều có chi phí rất đắt đỏ.
Một trong những hoạt động tình báo bí mật nhất của Cục tình báo trung ương Mỹ (CIA) vào đầu những năm 1980 của thế kỷ trước là tích cực sử dụng các con tàu ngầm vào việc thu thập thông tin quan trọng. Chúng thường xuyên xâm phạm vùng lãnh hải của Liên Xô, suýt nữa đã đột nhập vào khu vực các căn cứ hải quân.
Tháng 4/1969, Trung đội 3, Đại đội 3, Tiểu đoàn Công binh 25 (Quân khu Tây Bắc) đang làm nhiệm vụ mở đường cơ giới từ sân bay Huội Mạ đi Pa Thí (tỉnh Sầm Nưa, Lào) thì được lệnh “lật cánh” xuống Xiengkhuang.
Chuyến đi sứ của “Trạng Bịu” Nguyễn Đăng Đạo gắn liền với việc đòi lại 3 động là Ngưu Dương, Hồ Điệp, Phổ Viên thuộc xứ Tuyên Quang bị nhà Thanh lấn chiếm trái phép.
Bước ra từ bóng tối, ninja hạ sát mục tiêu, chiến đấu và tẩu thoát bằng những nhẫn thuật phi thường như chạy trên mặt nước, phun ra lửa hay phân thân ra hàng chục người giống hệt nhau.
Chủ tịch Hồ Chí Minh không câu nệ về “đối đẳng chức vụ”, không bị ràng buộc bởi nghi thức ngoại giao mà luôn chủ động, linh hoạt và hết sức chú trọng đến mục tiêu, hiệu quả của công tác đối ngoại. Đúng như lời cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng nhận xét: “Sự ứng xử linh hoạt của Hồ Chí Minh trong giao tiếp ngoại giao đã trở thành những câu chuyện huyền thoại”.
Mục đích của Pháp là đưa lên ngôi một ông vua đần độn, không có tinh thần chống Pháp để dễ bề sai khiến về sau này; càng nhỏ tuổi càng tốt, càng dễ uốn nắn. Khi viên toàn quyền thấy hoàng tử Vĩnh San đang còn nhỏ và quá nhát gan như đình thần đã cho biết thì tỏ vẻ mãn nguyện lắm...
Mùa thu năm 1962, CIA đối mặt với hai vấn đề lớn ở khu vực Caribe: Tên lửa hạt nhân Liên Xô ở Cuba và 1.300 tấn đường bị hỏng ở Puerto Rico. Câu chuyện về lô đường được đưa ra ánh sáng nhờ hơn 2.000 tài liệu từ “Kho lưu trữ Kennedy” vừa mới được công bố. Những tài liệu này trước đây được coi là bí mật vì liên quan đến cuộc điều tra vụ ám sát tổng thống thứ 35 của Mỹ John F. Kennedy. Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.
Trong tiểu thuyết Ỷ thiên đồ long ký, Hồ Thanh Ngưu và Vương Nạn Cô là một cặp vợ chồng đặc biệt, nổi tiếng với y thuật cao siêu nhưng cũng đầy kỳ lạ.
Cây ngô là một loại lương thực quan trọng của người dân đất Việt. Để đưa được giống ngô về Việt Nam là cả một câu chuyện ly kỳ. Trong dân gian có truyền thuyết rằng trạng Bùng Phùng Khắc Khoan là người đầu tiên đưa giống ngô từ Trung Hoa về Việt Nam khi ông đi sứ nhà Minh vào năm 1597.
Trong số các tướng lĩnh dưới trướng của Hạng Vũ, có người may mắn được sống nốt cuộc đời trong yên ổn nhưng cũng có người phải nhận kết cục thê thảm.
Trung tướng Lê Văn Tri là người đã trực tiếp chỉ huy chiến dịch "Điện Biên Phủ trên không" cuối năm 1972 và "Phi đội Quyết thắng" oanh kích vào sân bay Tân Sơn Nhất trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử mùa xuân 1975.
Trong tác phẩm Tây Du Ký, một trong những nhân vật gây ấn tượng mạnh mẽ và cũng đầy thú vị chính là Trư Bát Giới. Dù mang trong mình vô vàn khuyết điểm, Trư Bát Giới lại giữ vai trò vô cùng quan trọng trong hành trình thỉnh kinh gian nan của Đường Tăng.
Chuẩn bị mở màn Chiến dịch Biên giới, đầu tháng 8/1950, Bộ Tổng Tham mưu thành lập bộ phận tiền phương do đồng chí Phan Phác, Phó tổng Tham mưu trưởng làm Trưởng bộ phận Tham mưu tiền phương trực tiếp chỉ đạo.
Chu Nguyên Chương nổi tiếng đa nghi và tàn bạo, nhưng khi ở trước bà ông đều lắng nghe những lời khuyên răn của bà, nhờ bà mà Chu Nguyên Chương mới đạt được Đế nghiệp. Suốt cuộc đời bà hết lòng vì chồng, vì bách tính, vì thiên hạ, bà chính là Mã Hoàng hậu, Hoàng hậu đầu tiên của nhà Minh.
5