Quân đồng minh đối xử với tù binh Đức như thế nào trong Thế chiến II?
Ở phía tây nước Đức, cách Bonn 35 km, gần thành phố Remagen, có một địa danh được gọi là Goldelen Meile (“vùng đất màu mỡ”), nằm ở tả ngạn sông Rhine.
Báo điện tử của Trung ương Hội Nông dân Việt Nam
Tổng biên tập: Nguyễn Văn Hoài
Phó Tổng Biên tập: Phan Huy Hà (Thường trực), Lưu Phan, Đỗ Thị
Sâm, Hoàng Sơn
Giấy phép số 115/GP-BTTTT cấp ngày 01/3/2022
Bản quyền thuộc về Báo điện tử Dân Việt.
Mọi hình thức sao chép lại thông tin, hình ảnh phải được sự đồng ý bằng văn bản .
Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận
Xin chào, !
Bạn đã đăng nhập với email:
Đăng xuất
Vào những ngày diễn ra cuộc chiến tranh Xô-Nhật ngắn ngủi (9/8 – 2/9/1945) và ngày kết thúc Thế chiến II ở Nhật Bản (15/8/1945), Cơ quan Anh ninh Liên bang Nga (FSB) đã công bố các tài liệu mật của Nhật Bản về vũ khí sinh học, mà đế quốc Nhật Bản đã lên kế hoạch sử dụng để chống lại các đối thủ của mình.
Trong đó gồm cả biên bản thẩm vấn Otozo Yamada – Tổng Tư lệnh cuối cùng của Quân đội Nhật Hoàng tại vùng lãnh thổ cho thuê Kwantung và Nam Mãn Châu. Sĩ quan cấp cao này của Quân đội Nhật Bản đã bị thẩm vấn từ năm 1945 đến năm 1949 để phục vụ phiên tòa Khabarovsk, xét xử quân đội Nhật Bản bị buộc tội chế tạo và sử dụng vũ khí sinh học.
Trong chiến tranh, các Biệt đội 731 và 100 trực thuộc Tổng Tư lệnh quân đội Kwantung tham gia nghiên cứu trong lĩnh vực vũ khí sinh học, các thí nghiệm được thực hiện trên người sống. Các tài liệu mật cho phép lưu giữ ký ức về những bài học tàn khốc của Thế chiến II và chiến công của quân đội Liên Xô, đã bóp chết ý đồ của Quân đội Nhật Hoàng phát động một cuộc chiến tranh sinh học chống Liên Xô và Mỹ.
Thực tế, tại Nhật Bản thời hậu chiến và hiện đại, người ta thường không nhấn mạnh đến tiêu cực liên quan đến quân đội Nhật Bản trong chiến tranh hoặc với các hành động của các đồng minh hiện tại của Mỹ. Khi nói về các vụ ném bom nguyên tử ở Hiroshima và Nagasaki, họ cố gắng không đề cập đến người Mỹ – nói chung, đế quốc Nhật Bản không phải là kẻ xâm lược, mà là một nạn nhân.
Điều đáng chú ý là giới lãnh đạo quân sự-chính trị Nhật Bản phản ứng khá bình tĩnh trước các cuộc tấn công nguyên tử của Mỹ vào các thành phố của họ. Một mặt, thiệt hại do các cuộc ném bom rải thảm thường xuyên vào các thành phố của Nhật Bản, hầu hết là bằng gỗ và bị thiêu rụi hoàn toàn, vượt quá thiệt hại do các cuộc tấn công hạt nhân vào Hiroshima và Nagasaki. Rõ ràng là một cuộc xâm lược của quân đồng minh trực tiếp trên các đảo của Nhật Bản, nơi mà cơ quan đầu não của Nhật lên kế hoạch phòng thủ cho đến những người Nhật cuối cùng, sẽ gây ra thương vong lớn hơn cho dân thường.
Mặt khác, người Nhật đã có phản ứng phi đối xứng trước các cuộc tấn công nguyên tử của đối phương. Đó là Biệt đội 731 dưới quyền chỉ huy của Trung tướng Ishii Shiro, một nhà vi trùng học Nhật Bản đã nghiên cứu vũ khí sinh học và hóa học ở các nước phương Tây vào những năm 1928-1930. Năm 1932, người Nhật thành lập cơ sở nghiên cứu vũ khí vi trùng bí mật ở vùng lân cận Cáp Nhĩ Tân, do Shiro đứng đầu.
Trên cơ sở đó, Biệt đội 731 được thành lập, chuyên nghiên cứu về virus, côn trùng, chất độc, các bệnh truyền nhiễm khác nhau, sản xuất các tác nhân chiến tranh hóa học… Trong các thí nghiệm ma quỷ trên người, từ 3.000-10.000 người đã chết. Khoảng 70% đối tượng thử nghiệm là người Trung Quốc, 30% là người Nga (bao gồm cả những người tị nạn từ Đế quốc Nga), số còn lại là người Hàn Quốc và Mông Cổ.
Năm 1935, Biệt đội 100 được thành lập nằm cách Tân Kinh 10 km về phía nam thị trấn Mengjiatun. Biệt đội do Thiếu tướng Cục Thú y Wakamatsu, người dưới quyền của Cục trưởng Cục Thú y của Bộ chỉ huy Quân sự Kwantung, Trung tướng Cục Thú y Takaatsu Takahashi, chỉ huy. Biệt đội 100 chuyên chế tạo vũ khí vi trùng được thiết kế để tiêu diệt động vật và thực vật.
Nghiên cứu của Biệt đội 100 không chỉ liên quan đến động vật; con người cũng được sử dụng để làm thí nghiệm. Kết quả của các thí nghiệm, những người đó (được cho uống thuốc ngủ, chất độc và ma túy) bị suy yếu, tiếp theo, họ bị cho nhiễm bệnh kiết lỵ, sau đó nạn nhân được tiêm các hợp chất xyanua dưới vỏ bọc của thuốc và bị giết. Vào thời điểm Liên Xô tham chiến với Nhật Bản, một số phương pháp sử dụng vũ khí sinh học đã được phát triển ở đó và một lượng lớn đạn dược đã được chuẩn bị.
Trong cuốn sách của nhà văn Nhật Bản Morimura Seiichi “Căn bếp của quỷ” có mô tả một số chi tiết hoạt động của những lực lượng đặc biệt này của Quân đội Kwantung. Trên lãnh địa của Biệt đội 731, cả một nhà máy hoạt động, nơi mầm bệnh gây dịch hạch, sốt phát ban, bệnh phong, bệnh than… được nhân giống. Đến năm 1945, người Nhật đã tích lũy được rất nhiều vũ khí sinh học.
Bom gốm đặc biệt đã được phát triển, có khả năng không chỉ mang vi trùng đến lãnh thổ của kẻ thù, mà còn cả các vật thể sinh học bị nhiễm bệnh – chuột, bọ ve, bọ chét, v.v… Như một trong các sĩ quan của biệt đội này đã lưu ý, “nếu chúng (bom sinh học của Nhật), trong điều kiện lý tưởng, được rải trên toàn cầu, chúng đủ để hủy diệt toàn bộ nhân loại!”
Người Nhật chuẩn bị tiến hành chiến tranh sinh học theo 3 cách: bằng các hoạt động phá hoại của các đơn vị được đưa vào lãnh thổ nước ngoài, để làm lây nhiễm, ví dụ – các vùng nước; sử dụng đạn pháo – cho các vật thể bị nhiễm vào đạn và bắn vào lãnh thổ của đối phương; bom hàng không và không quân. Tướng Ishii coi phương pháp sử dụng bom sinh học là có triển vọng nhất.
Một quả bom gốm với lượng thuốc nổ nhỏ có thể phát nổ ở độ cao thấp so với mặt đất. Bọ chét mang mầm bệnh dịch hạch, nằm rải rác trên mặt đất, ngay lập tức bắt đầu “hành động” để tìm kiếm vật mang. Các mầm bệnh gây chết người đã được thử nghiệm. Kể từ năm 1939-1940, các đợt bùng phát truyền nhiễm cấp tính đã được ghi nhận ở nhiều nơi khác nhau ở Trung Quốc, bắt đầu ở một số nơi, sau đó lan rộng trên một khu vực rộng lớn.
Morimura lưu ý, “Có nhiều lý do chính đáng để nghi ngờ rằng sự bùng phát của bệnh sốt phát ban và bệnh dịch hạch bắt đầu vào năm 1940 ở một số khu vực phía đông bắc Trung Quốc thực chất là “các hành động thù địch phối hợp” được thực hiện hoàn toàn bí mật bởi “Biệt đội 731”, hiến binh của Quân đội Kwantung và các lực lượng đặc nhiệm”. Ngoài ra, vũ khí sinh học cũng được sử dụng để chống lại quân đội Trung Quốc.
Việc phát tán bọ chét mang mầm bệnh dịch hạch bằng hàng không, cái gọi là mưa vi khuẩn, đã được sử dụng; các hồ chứa, thực phẩm và các khu định cư đã bị nhiễm bệnh do sự các chiến dịch phá hoại và ít nhất, có hàng trăm người chết. Như tòa án tại Khabarovsk đã chứng minh, vũ khí sinh học cũng được sử dụng để phá hoại Liên Xô.
Sau khi chiến tranh kết thúc, Tướng Yamada thừa nhận rằng, “Vũ khí vi khuẩn sẽ được sử dụng để chống lại Mỹ, Anh và các nước khác nếu Liên Xô không ra tay chống lại Nhật Bản. Việc Liên Xô tham gia cuộc chiến chống Nhật Bản và việc Hồng quân tiến nhanh vào Mãn Châu đã tước đi cơ hội sử dụng vũ khí vi khuẩn học của chúng tôi chống lại Liên Xô và các nước khác”.
Nhật Bản sở hữu các tàu ngầm lớn thuộc dòng I-400 có thể vượt đại dương và được trang bị các máy bay có khả năng vận chuyển bom sinh học và thùng chứa có động vật và côn trùng bị nhiễm bệnh đến lãnh thổ đông dân của Mỹ, có thể giáng một đòn mạnh vào nước Mỹ, gây ra hoảng loạn và dịch bệnh. Sau các cuộc tấn công nguyên tử vào Nhật Bản, giới chức Nhật Bản bắt đầu chuẩn bị một cuộc tấn công trả đũa chống lại Mỹ, nhưng sự tham chiến bất ngờ của Liên Xô đã đảo lộn tất cả các kế hoạch của samurai Nhật Bản.
Quân đội Kwantung nhanh chóng bị đánh bại. Và cuộc tiến công thần tốc của quân đội Liên Xô đến quận Pingfan, nơi đặt căn cứ của Biệt đội 731, đã phá hỏng kế hoạch bắt đầu chiến tranh sinh học. Hầu hết các cơ sở, phòng thí nghiệm, vật liệu và tài liệu của Biệt đội 731 đã bị phá hủy, một số nhân viên đã tự sát. Trước đó, tất cả các tù nhân đều bị giết hại một cách dã man.
Những người còn sót lại của đơn vị bí mật được sơ tán đến Hàn Quốc, từ đó đến Nhật Bản. Một số kẻ đào tẩu bị tụt lại trên đường đi, không muốn quay trở lại Nhật Bản, đã bị quân đội Trung Quốc hoặc Liên Xô bắt giữ. Tại Nhật Bản, các thành viên của Biệt đội 731 được lệnh che giấu việc phục vụ trong quân đội và thực tế làm việc tại các biệt đội bí mật, không được giữ các chức vụ xã hội chính thức và công khai, cắt đứt liên lạc với nhau…
Sau chiến tranh, tìm thấy Ishii, người Mỹ đã trao cho gã đồ tể này quyền miễn trừ truy tố để đổi lấy dữ liệu về nghiên cứu vũ khí sinh học và đã nhận được những thông tin quý giá. Phía Liên Xô được thông báo rằng, “Nơi ở của lãnh đạo Biệt đội 731, bao gồm cả Ishii, vẫn chưa được xác định, và không có căn cứ để buộc tội biệt đội này là tội ác chiến tranh”. Tuy nhiên, Moscow vẫn luôn kiên quyết yêu cầu điều tra và đưa ra ánh sáng các hoạt động của Biệt đội 731.
Một trong những hoạt động tình báo bí mật nhất của Cục tình báo trung ương Mỹ (CIA) vào đầu những năm 1980 của thế kỷ trước là tích cực sử dụng các con tàu ngầm vào việc thu thập thông tin quan trọng. Chúng thường xuyên xâm phạm vùng lãnh hải của Liên Xô, suýt nữa đã đột nhập vào khu vực các căn cứ hải quân.
Ở phía tây nước Đức, cách Bonn 35 km, gần thành phố Remagen, có một địa danh được gọi là Goldelen Meile (“vùng đất màu mỡ”), nằm ở tả ngạn sông Rhine.
Trong Chiến dịch Biên giới (diễn ra từ ngày 16/9 đến 14/10/1950), lần đầu tiên quân ta tiến hành vận động tiến công quy mô đại đoàn, tiêu diệt gọn các binh đoàn tinh nhuệ của địch.
Bất ngờ với dàn hậu cung của vị hoàng đế được đánh giá là đông nhất lịch sử nhà Thanh nói riêng và lịch sử Trung Hoa nói chung.
Tam quốc là thời các anh hùng xuất thế, là đài diễn của anh hùng trong thiên hạ. Mỗi người diễn một vai, mỗi người mang trong mình những tài năng vô cùng ấn tượng, có người mưu lược, võ công, oai phong lẫm liệt, trung dũng, nghĩa khí….nhưng có người luôn che dấu tài năng của mình, nhẫn chịu và chờ đợi thời cơ.
Trong cuốn lịch sử Không quân nhân dân Việt Nam có một dòng chữ giản dị: “Ngày 15 tháng 8 năm 1949, Phi công Nguyễn Đức Việt (Schuzle) đã lái chiếc máy bay Tiger Moth mang theo lá cờ đỏ sao vàng bay trên bầu trời Chiêm Hóa, Tuyên Quang”. Chỉ vỏn vẹn vài dòng chữ như vậy nhưng cuộc đời phi công hàng binh người Đức này chứa đựng bao chìm nổi, li kì và gắn với sự ra đời của lực lượng Không quân nhân dân Việt Nam thời kì trứng nước.
Chiến tranh, từ xưa đến nay không phải là một khái niệm đơn giản. Nó không chỉ liên quan đến an ninh và vận mệnh của quốc gia mà còn là một cỗ máy đốt tiền khổng lồ. Đặc biệt trong chiến tranh ngày nay, vũ khí công nghệ cao, hậu cần bảo đảm, hệ thống tình báo đều có chi phí rất đắt đỏ.
Một trong những hoạt động tình báo bí mật nhất của Cục tình báo trung ương Mỹ (CIA) vào đầu những năm 1980 của thế kỷ trước là tích cực sử dụng các con tàu ngầm vào việc thu thập thông tin quan trọng. Chúng thường xuyên xâm phạm vùng lãnh hải của Liên Xô, suýt nữa đã đột nhập vào khu vực các căn cứ hải quân.
Tháng 4/1969, Trung đội 3, Đại đội 3, Tiểu đoàn Công binh 25 (Quân khu Tây Bắc) đang làm nhiệm vụ mở đường cơ giới từ sân bay Huội Mạ đi Pa Thí (tỉnh Sầm Nưa, Lào) thì được lệnh “lật cánh” xuống Xiengkhuang.
Chuyến đi sứ của “Trạng Bịu” Nguyễn Đăng Đạo gắn liền với việc đòi lại 3 động là Ngưu Dương, Hồ Điệp, Phổ Viên thuộc xứ Tuyên Quang bị nhà Thanh lấn chiếm trái phép.
Bước ra từ bóng tối, ninja hạ sát mục tiêu, chiến đấu và tẩu thoát bằng những nhẫn thuật phi thường như chạy trên mặt nước, phun ra lửa hay phân thân ra hàng chục người giống hệt nhau.
Chủ tịch Hồ Chí Minh không câu nệ về “đối đẳng chức vụ”, không bị ràng buộc bởi nghi thức ngoại giao mà luôn chủ động, linh hoạt và hết sức chú trọng đến mục tiêu, hiệu quả của công tác đối ngoại. Đúng như lời cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng nhận xét: “Sự ứng xử linh hoạt của Hồ Chí Minh trong giao tiếp ngoại giao đã trở thành những câu chuyện huyền thoại”.
Mục đích của Pháp là đưa lên ngôi một ông vua đần độn, không có tinh thần chống Pháp để dễ bề sai khiến về sau này; càng nhỏ tuổi càng tốt, càng dễ uốn nắn. Khi viên toàn quyền thấy hoàng tử Vĩnh San đang còn nhỏ và quá nhát gan như đình thần đã cho biết thì tỏ vẻ mãn nguyện lắm...
Mùa thu năm 1962, CIA đối mặt với hai vấn đề lớn ở khu vực Caribe: Tên lửa hạt nhân Liên Xô ở Cuba và 1.300 tấn đường bị hỏng ở Puerto Rico. Câu chuyện về lô đường được đưa ra ánh sáng nhờ hơn 2.000 tài liệu từ “Kho lưu trữ Kennedy” vừa mới được công bố. Những tài liệu này trước đây được coi là bí mật vì liên quan đến cuộc điều tra vụ ám sát tổng thống thứ 35 của Mỹ John F. Kennedy. Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.
Trong tiểu thuyết Ỷ thiên đồ long ký, Hồ Thanh Ngưu và Vương Nạn Cô là một cặp vợ chồng đặc biệt, nổi tiếng với y thuật cao siêu nhưng cũng đầy kỳ lạ.
Cây ngô là một loại lương thực quan trọng của người dân đất Việt. Để đưa được giống ngô về Việt Nam là cả một câu chuyện ly kỳ. Trong dân gian có truyền thuyết rằng trạng Bùng Phùng Khắc Khoan là người đầu tiên đưa giống ngô từ Trung Hoa về Việt Nam khi ông đi sứ nhà Minh vào năm 1597.
Trong số các tướng lĩnh dưới trướng của Hạng Vũ, có người may mắn được sống nốt cuộc đời trong yên ổn nhưng cũng có người phải nhận kết cục thê thảm.
Trung tướng Lê Văn Tri là người đã trực tiếp chỉ huy chiến dịch "Điện Biên Phủ trên không" cuối năm 1972 và "Phi đội Quyết thắng" oanh kích vào sân bay Tân Sơn Nhất trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử mùa xuân 1975.
Trong tác phẩm Tây Du Ký, một trong những nhân vật gây ấn tượng mạnh mẽ và cũng đầy thú vị chính là Trư Bát Giới. Dù mang trong mình vô vàn khuyết điểm, Trư Bát Giới lại giữ vai trò vô cùng quan trọng trong hành trình thỉnh kinh gian nan của Đường Tăng.
Chuẩn bị mở màn Chiến dịch Biên giới, đầu tháng 8/1950, Bộ Tổng Tham mưu thành lập bộ phận tiền phương do đồng chí Phan Phác, Phó tổng Tham mưu trưởng làm Trưởng bộ phận Tham mưu tiền phương trực tiếp chỉ đạo.
Chu Nguyên Chương nổi tiếng đa nghi và tàn bạo, nhưng khi ở trước bà ông đều lắng nghe những lời khuyên răn của bà, nhờ bà mà Chu Nguyên Chương mới đạt được Đế nghiệp. Suốt cuộc đời bà hết lòng vì chồng, vì bách tính, vì thiên hạ, bà chính là Mã Hoàng hậu, Hoàng hậu đầu tiên của nhà Minh.
5