4 danh tướng Trung Quốc mang hoạ vì đưa ra quyết định “tàn khốc"

Tiểu Phàm Thứ bảy, ngày 05/10/2024 23:14 PM (GMT+7)
Trong lịch sử Trung Quốc, có rất nhiều danh tướng vào sinh ra tử, chiến công hiển hách, nhưng đôi khi vì những quyết định tàn khốc, khiến bản thân và con cháu của họ mang hoạ về sau...
Bình luận 0

1. Danh tướng Bạch Khởi của nước Tần

Bạch Khởi (năm 332 trước công nguyên? – năm 257 trước công nguyên), nhà quân sự thời Chiến Quốc, danh tướng nước Tần, một nhân vật tiêu biểu của binh gia. Bạch Khởi làm tướng của nước Tần hơn 30 năm, tấn công hơn 70 thành, tiêu diệt gần một triệu quân địch, chưa bại lần nào, được phong làm Vũ An Quân. Bạch Khởi cả đời đã giành thắng lợi huy hoàng trong các trận chiến như Y Khuyết, Yên Dĩnh, Hoa Dương, Hình Thành, Trường Bình. "Thiên văn tự" đã gọi Bạch Khởi, Vương Tiễn, Liêm Pha và Lý Mục là 4 danh tướng thời chiến quốc.

Trong trận Trường Bình, sau khi Tần Chiêu Tương Vương biết được Triệu Quát làm chủ tướng, đã ngầm phái Bạch Khởi thay Vương Hột làm chủ tướng. Khi chủ lực của quân Triệu bị vây khốn, cạn lương thực sau 46 ngày, 40 vạn quân sĩ nước Triệu đã đầu hàng Bạch Khởi. Bạch Khởi cùng thủ hạ và tướng lĩnh hiến kế nói: "Nhân dân nước Triệu thay đổi thất thường, trước khi nước Tần chiếm được Thượng Đảng, dân chúng nơi đó đều chạy về nước Triệu. Nếu không giết hết họ, e rằng lại có rắc rối".

Bạch Khởi dùng thủ đoạn lừa dối, ra lệnh cho thủ hạ và binh sĩ giết hết quân đầu hàng của nước Triệu, chỉ để lại 240 binh sĩ còn nhỏ tuổi, thả cho trở về nước Triệu báo tin. Trận Trường Bình trước sau giết chết 45 vạn quân Triệu, nước Triệu kinh hãi. Sau trận chiến, quân Tần dọn sạch chiến trường, thu thập đầu lâu, đầu người quá nhiều chất thành đài, gọi là "Bạch Khởi đài".

img

Chân dung Bạch Khởi – Ảnh Soundofhope

Sau trận Trường Bình, bởi vì Bạch Khởi phát sinh mâu thuẫn với Tần Chiêu Tương Vương trong vấn đề tấn công nước Triệu, hơn nữa tin tức bại trận của quân Tần ở tiền phương liên tục gửi đến, Tần Chiêu Tương Vương càng thêm phẫn nộ, vì vậy sai người trục xuất Bạch Khởi. Bạch Khởi đi khỏi cửa Tây, Hàm Dương được mười dặm, đến Đỗ Bưu (nay là đông bắc Hàm Dương, Thiểm Tây). Phạm Thư nói với Tần Chiêu Tương Vương: "Bạch Khởi sau khi bị lưu đày thì không phục mà nói ra lời oán hận".

Vì vậy Tần Chiêu Tương Vương sai người ban cho Bạch Khởi một thanh kiếm để tự tử. Lúc này Bạch Khởi ngửa mặt lên trời thở dài nói: "Ta rốt cuộc đã mắc sai lầm gì mà lại rơi vào kết cục như thế này?" Một lát sau lại nói: "Ta vốn là đáng chết. Trận Trường Bình quân sĩ nước Triệu đầu hàng đến mấy trăm ngàn người, ta dùng thuật lừa dối mà chôn sống họ, như vậy cũng đã đủ tội chết rồi". Bạch Khởi sau đó tự sát.

2. Trương Lương, khai quốc công thần nhà Hán

Trương Lương, tự Tử Phòng, được phong làm Lưu Hầu, thụy hiệu Văn Thành. Sau khi nước Hàn bị nhà Tần tiêu diệt, từng ám sát Tần Thủy Hoàng thất bại, sau trở thành mưu thần của Hán Cao Tổ Lưu Bang, là một trong những khai quốc công thần của nhà Hán, ông cùng với Tiêu Hà và Hán Tín được xưng là Hán Sơ Tam Kiệt

Vào năm Hán Cao Tổ thứ 4 (năm 203 TCN), nhà Hán dần hình thành thế bao vây với nước Sở: Hàn Tín dựa vào đất Tề không ngừng tập kích quân Sở, Bành Việt lại nhiều lần từ đất Lương xuất binh, ngăn chặn con đường vận lương của quân sở. Quân Sở bị cạn kiệt lương thực, Hạng Vũ không biết làm sao, cuối cùng đành thả cha, vợ và con của Lưu Bang về, cùng Lưu Bang giảng hòa. Hai bên thỏa thuận, lấy cái hào rộng làm ranh giới, phân chia thiên hạ, Đông quy về Sở, Tây quy về Hán, lập giao ước giải giáp về nước, các bên không xâm phạm lẫn nhau.

Hạng Vũ đúng hẹn nhổ trại đi về Đông, hướng Bành Thành mà đi. Lưu Bang cũng muốn dẫn quân đi về hướng Tây đến Hán Trung. Lúc này Trương Lương nhìn thấu tình trạng của Hạng Vũ, bị bao vây tứ phía, vô cùng khó khăn, liền cùng với Trần Bình khuyên Lưu Bang: "Nhà Hán hiện nay đã chiếm 2/3 thiên hạ, đây chính là thời cơ có lợi để diệt Sở, truy đuổi giặc cùng đường, sự nghiệp hoàn tất cũng ở lần hành động này. Nếu để cho Sở đi về Đông, thì cũng như là thả hổ về rừng, tất sẽ có hậu họa khôn lường". Lưu Bang tiếp nhận ý kiến của Trương Lương, tự mình dẫn đại quân truy kích Hạng Vũ, cũng lệnh cho Hàn Tín, Bành Việt bao vây Hạng Vũ.

Quân Hán lần lượt tập trung tại Cai Hạ (nay là bờ Bắc sông Đà, huyện Linh Bích, An Huy). Hàn Tín trước tiên dùng kế "thập diện mai phục" để vây Hạng Vũ ở Cai Hạ, tiếp theo lại dùng kế "bốn bề thọ địch" để làm tan rã sĩ khí quân địch, cuối cùng đánh bại Hạng Vũ, Hạng Vũ đành phải tự tử. Cho đến lúc đó, trận chiến Hán Sở kéo dài 4 năm đã kết thúc với chiến thắng trọn vẹn cho Lưu Bang. Mà Trương Lương hiến kế truy sát Hạng Vũ, cùng với việc giết binh sĩ đầu hàng có khác gì nhau?

Con trai trưởng Trương Bất Nghi của Trương Lương được phong làm Lưu Hầu đời thứ hai vào năm 185 trước công nguyên. Năm Hán Văn Đế thứ 5 (năm 175 trước công nguyên), Lưu Hầu Trương Bất Nghi tham gia mưu sát cựu quý tộc của nước Sở, phạm tội bất kính, bị phán tử hình, tước đoạt quốc tước Lưu hầu. Về sau dốc hết gia sản chuộc mạng làm một lính cánh bảo vệ thành, gia tộc Lưu hầu từ đó biến mất. Đây chính là báo ứng!

3. Lý Quảng giết quân đầu hàng mà gặp họa

Nhà thơ Vương Xương Linh vào thời nhà Đường có bài thơ "Xuất tắc": "Tần thời minh nguyệt hán thời quan, vạn lý trường chinh nhân vị hoàn. Đãn sử long thành phi tướng tại, bất giáo hồ mã độ âm sơn" (Bản dịch thơ của Châu Giang: Trăng Tần, ải Hán vẫn đây mà, Nghìn dặm chinh phu chửa về nhà. Phi tướng nếu giờ còn ở lại, m Sơn đâu có ngựa Hồ qua!". "Long thành phi tướng" trong bài thơ này là chỉ Lý Quảng. Lý Quảng là võ tướng thời nhà Hán, giỏi bắn tên, rất có tài năng, cùng Hung Nô đánh trận hơn 70 lần, mỗi lần đều giành được thắng lợi lớn, cho nên Hung Nô đều rất sợ ông, không dám xâm phạm. Một thời võ công hiển hách, có danh hiệu là Phi tướng quân (viên tướng bay).

img

Tượng Lý Quảng

Lý Quảng từng đi theo hoàng đế xuất hành, thường xông pha chiến đấu, chống lại quân địch, cùng với việc đánh chết mãnh thú. Thời Hán Văn Đế, bởi vì thảo phạt Hung Nô có công, được phong làm Tán kỵ thường thị; thời Vũ Đế, làm thái thú Bắc Bình. Nhưng thuộc hạ của Lý Quảng, trước sau được phong hầu rất nhiều, địa vị còn cao hơn Lý Quảng, vậy mà Lý Quảng không được phong tước hay ban đất, chức quan cũng không quá Cửu khanh.

Một hôm, Lý Quảng âm thầm thỉnh giáo Vương Sóc, một người giỏi xem tướng và nói: "Từ khi triều Hán tấn công Hung Nô đến nay, tôi không có lần nào không tham gia. Tuy nhiên các sĩ quan từ Giáo úy trở xuống, tài năng còn không bằng người bậc trung, vậy mà nhờ tấn công Hung Nô có công, được phong hầu có mấy chục người. Lý Quảng tôi không có kém so với người khác, vậy mà lại không được phong đất, việc này nguyên nhân là do đâu? Chẳng lẽ cốt tướng của tôi là không được phong hầu hay sao? Hay vốn mệnh của tôi đã là như thế?"

Vương Sóc nói: "Tướng quân tự mình suy nghĩ một chút, có làm chuyện gì có lỗi với lương tâm không?" Lý Quảng nói: "Tôi từng làm Thái thú Lũng Tây, người Khương có một lần làm phản, tôi dụ hàng hơn 800 người khương, sau đó giết hết bọn họ, đến nay còn cảm thấy có lỗi với lương tâm, đó là chuyện khiến tôi vô cùng hối hận". Vương Sóc nói: "Họa lớn là do giết người đã đầu hàng, bởi vì tướng quân ác độc giết người đã đầu hàng, cho nên không thể được phong hầu". Sau đó Lý Quảng hành quân bị lạc đường, tự tử mà chết. Cháu của Lý Quảng là Lý Lăng, bởi vì đầu hàng Hung Nô, mẹ và vợ của anh cũng bị giết.

4. Tiền Duy Thành tàn sát, gây họa cho con cháu

Tiền Duy Thành (1720 – 1722), người Vũ Tiến, Giang Nam (nay là Thường Châu, Giang Tô). Năm Càn Long thứ 10 (năm 1745) đỗ trạng nguyên, làm quan đến Hình bộ thị lang, được vào Nam thư phòng.

Thường Châu có rất nhiều gia tộc hiển hách, như gia tộc Lã Cung (tướng quốc), gia tộc Dương Đình Ích (trạng nguyên), gia tộc Triệu Cung Nghị, Phan Tư Củ (tuần phủ)... con cháu của họ đều nhiều lần đỗ đạt, nhân tài rất nhiều, nhà dòng dõi Nho học. Chỉ có Tiền Duy Thành là đời sau suy bại, đến nay đã không còn người nối dõi.

Tương truyền, trong trận chiến thảo phạt người Miêu, Tiền Duy Thành đảm nhiệm chức Tư khấu (Hình bộ thượng thư), tham gia giúp đỡ việc quân. Sau khi người đứng đầu của cuộc nổi dậy của người Miêu bị bắt và giết, chủ soái muốn xử tử hết những thanh niên khỏe mạnh của người Miêu, chỉ chừa lại con nít, mới xin ý kiến của Tiền Duy Thành. Tiền Duy Thành nói dứt khoát: "Nghiệt chủng khó lưu!" Vì vậy trai gái già trẻ đều bị giết hết, động người Miêu đó vậy là tuyệt hậu. Sau khi quân đội chiến thắng trở về không lâu thì Tiền Duy Thành qua đời, con trai của ông cũng chết theo. Lưu lại cháu trai, rất nhiều người bị tàn tật. Hương hỏa Tiền gia đến đây là chấm hết.

img

Ảnh: Một phần của bức khắc đồng thời nhà Thanh "Nơi chiến thắng biên giới Miêu – Soundofhope

Mời các bạn đồng hành cùng báo Dân Việt trên mạng xã hội Facebook để nhanh chóng cập nhật những tin tức mới và chính xác nhất.
Ý kiến của bạn
Tin cùng chuyên mục
Xem theo ngày Xem