Chùa Bồ Đề nằm ở phố Phú Viên, phường Bồ Đề, quận Long Biên, Hà Nội (trước kia thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội), cách bờ bắc cầu Chương Dương khoảng 500m về phía Nam. Nơi chùa chính thờ Phật pháp, vương triều nhà Trần, tam toà thánh Mẫu.
Các phật tử tới chùa Bồ Đề làm lễ.
Chùa Bồ Đề tên chữ là Thiên Sơn tự nằm bên bờ tả ngạn sông Hồng. Chùa xưa được kiến tạo vào cuối đời nhà Trần (khoảng 1427) trên gò đất cao nên gọi là Núi Trời, nhờ vậy có tên chữ là Thiên Sơn.
Theo Wikipedia, chùa Bồ Đề trước đây là bến Bồ Đề, nơi Lê Lợi đóng quân đánh thành Đông Quan, đánh đuổi quân Minh xâm lược. Tấm bia cổ dựng năm Hoằng Định thứ 15 (1614) đời Lê Kính Tông có chép lại việc dựng lại chùa và ghi rõ "đại công đức Bồ Đề" của vua Lê Thái Tổ. Chùa chỉ còn tòa thượng 5 gian xây trên nền cao, dáng bề thế, cổ kính.
Bồ Đề hiện nay là một phường thuộc quận Long Biên, thành phố Hà Nội, Việt Nam.
Sở dĩ gọi là "Bồ Đề" vì xa xưa trong làng có hai cây bồ đề cao, nổi bật giữa những làng quê ven sông Hồng, ngang đỉnh tháp chùa Báo Thiên ở trong Kinh thành Thăng Long ở bên kia sông. Chùa Bồ Đề còn có tên gọi là Thiên Sơn tự. Chùa toạ lạc tại thôn Phú Yên, xã Bồ Đề, huyện Gia Lâm, cách bờ Bắc cầu Chương Dương khoảng 500m về hướng Nam, nay thuộc quận Long Biên, thành phố Hà Nội. Đây là một ngôi chùa nữ và cũng là mái ấm tình thương đùm bọc, cưu mang trẻ mồ côi.
Tương truyền chùa được xây trên đất dinh Bồ Đề của Lê Lợi khi vua bao vây thành Đông Quan năm 1472. Các tài liệu lịch sử còn ghi lại là: "Vua làm lầu nhiều tầng ở dinh Bồ Đề trên bờ sông Lô, cao bằng tháp Báo Thiên, hàng ngày ngự trên lầu quan sát vào trong thành xem giặc làm gì". Dinh được gọi tên là dinh Bồ Đề vì lúc ấy trong khuôn viên có hai cây bồ đề to. Tấm bia cổ dựng năm Hoằng Định thứ 15 (1614) đời Lê Kính Tông có chép lại việc dựng lại chùa và ghi rõ "Đại công đức Bồ Đề" của vua Lê Thái Tổ. Thế nhưng, cũng có nhiều ý kiến cho rằng chùa được xây từ cuối đời nhà Trần, trên một gò đất cao gọi là Núi Trời (nên còn có tên gọi là Thiên Sơn). Sau này, do bị chiến tranh tàn phá nên năm 1614, chùa được trùng tu tôn tạo trên nền chùa cũ và công đức khắc in vào hai quyển Pháp Hoa kinh để lưu hành.
Đến giữa thế kỉ XVIII, chùa lại tiếp tục bị chiến tranh huỷ hoại. Năm Giáp Tuất đời Tự Đức 27 (1874), đại sư Thích Nguyên Biểu, tự hiệu Nhất Thiết đại sư (1835 - 1906) đến trụ trì và ngài đã trùng tu, tôn tạo trên nền chùa cũ gồm thượng điện rộng 5 gian, cho thỉnh thêm tượng Phật mới, chùa Hộ, nhà Thiêu hương, nhà Pháp bảo và cửa Tam quan.
Theo thông tin từ trang chuabode.org.vn, đầu thế kỷ thứ XX, chùa Bồ Đề trở thành trung tâm đào tạo tăng ni thuộc Hội Phật giáo VN do hòa thượng Thích Trí Hải điều hành. Tuy nhiên đến năm 1946, giặc Pháp gây chiến, trường dời đi nơi khác. Chùa Bồ Đề chỉ còn lại ni sư Thích Đàm Thanh trụ giữ.
Tới năm 1951, chùa bị lũ lụt lớn làm sạt lở chỉ còn lại tòa thượng điện. Ngày 11 tháng 5 Tân Hợi (1971), mặc cho bom đạn Mỹ, hòa thượng Thích Trí Hải cùng Tăng Ni, Phật tử đã tiến hành trùng tu lại chùa gồm: Kê kích toàn bộ thượng điện và xây dựng lại phía sau, nâng cao nền chùa. Đặc biệt, trước khi khởi công, hòa thượng đã làm bài văn phát nguyện rất ấn tượng, nay còn lưu giữ ở chùa…
Ni sư Thích Đàm Lan đảm nhận trụ trì từ 1972 tới nay, nhưng mãi đến năm 1986, ni sư trụ trì mới được phép tiến hành đại trùng tu từ nhà Tổ, hậu liêu, nhà khách, nhà Tăng, nhà bếp và nhà ở của hơn 50 cháu cô nhi đang được chùa nuôi dạy và cho đi học. Năm 1999, chùa tiếp xây lầu bát khác và tôn trí tượng Đức Bồ tát Quan Âm cao 3,2 mét, hướng về sông Hồng…
Ngoài các Phật sự của Thiên Sơn tự, ni sư Thích Đàm Lan còn tham gia tích cực trong các hoạt động của Giáo hội và địa phương như: Ủy viên Thường trực kiêm Trưởng ban Từ thiện THPG Hà Nội, Ủy viên Ban Hoằng pháp T.Ư, Thành viên UBMTTQ TP.Hà Nội, Chánh đại diện PG và Đại biểu HĐND Q.Long Biên…
Vui lòng nhập nội dung bình luận.