Lúc đầu, phía Hoa Kỳ phát tín hiệu thuận, nhưng sau đổi ý. Lâu nay, nhà ngoại giao Bùi Viện vẫn được nhiều người coi là người Việt Nam đầu tiên đặt chân tới Hoa Kỳ. Nhưng thực tế, trước đó hai mươi năm, vào khoảng 1849, một người có quê ở vùng Đất Tổ đã tới California - khi miền đất này vừa mới sáp nhập vào Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ, thành bang thứ 31.
Người ấy là cụ Trần Trọng Khiêm (1821 - 1886), quê ở làng Xuân Lũng, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ.
Để có cứ liệu tin cậy, người viết bài này đã tìm hiểu các văn bản nói về báo Daily Evening vào thời điểm 1850 - 1853 (một tờ báo của vùng California), về tác phẩm California 1850 của Jamice Marschver, về cuốn sách La rueé vers l or (Đổ xô đi tìm vàng) của nhà văn người Pháp René Lefebre (nhà xuất bản Dumas, Lyon, 1937); tham khảo cuốn tiểu thuyết lịch sử Con đường thiên lý (1972) của nhà nghiên cứu uy tín Nguyễn Hiến Lê, Từ điển Nhân vật lịch sử Việt Nam (của Nguyễn Quốc Thắng và Nguyễn Bá Thế).
Đồng thời, việc tra cứu về lịch sử cận đại của Hoa Kỳ, chỉnh lại cho đúng và hợp lý các số liệu về thời điểm hoạt động cũng như tuổi của cụ Trần Trọng Khiêm cũng đã được thực hiện.
Sinh năm Tân Tỵ (1821) trong gia đình khoa bảng (có người anh là nhà nho Trần Mạnh Trí), cụ Khiêm có tư chất thông minh, sức vóc cường tráng, tính cách mạnh mẽ, ngay thẳng. Năm 18 tuổi, cụ đã học đủ các môn khoa cử, nhưng không đi thi cao hơn theo đường quan trường.
Cụ nói đường ấy để người anh đi, còn mình thì hợp với việc kinh doanh buôn bán. Thời ấy, vùng Bạch Hạc - Việt Trì ngã ba sông là nơi giao thương sầm uất, có nhiều thương nhân ngoại quốc lui tới. Với công việc buôn gỗ cùng các sản vật miền thượng du, cụ có cơ hội mở rộng giao du, bắt đầu học tiếng nước ngoài theo lối truyền khẩu.
Năm 20 tuổi, cụ Khiêm lập gia đình với một phụ nữ họ Lê cùng trong tổng. Cưới nhau được gần 3 năm, nhưng vợ chồng vẫn chưa có con. Năm 1843, do thâm thù từ trước không chiếm được người phụ nữ họ Lê về làm lẽ, tên chánh tổng địa phương đã hãm hại bà cùng người lão bộc, rồi đốt nhà phi tang.
Đau xót tột cùng, làm hậu sự cho vợ chu toàn, cụ Khiêm đi thăm, vấn an gia đình đôi bên rồi nói mình sẽ đi làm ăn xa. Một năm sau (1844), cụ trở về giết tên chánh tổng gian ác vào đúng ngày giỗ đầu cụ bà họ Lê. Trả xong mối thù cho vợ, rồi xuống Phố Hiến (tỉnh Hưng Yên), với tên gọi Lê Kim, cụ xin làm việc trên một tàu buôn ngoại quốc.
5 năm làm việc trên tàu buôn, Lê Kim học nói được 4 thứ tiếng (Anh, Pháp, Hoa, Hà Lan), biết được thung thổ nhiều miền đất lạ, tích lũy được ít vốn phòng thân. Buổi sáng một ngày của năm 1849, Lê Kim đặt chân tới Hoa Kỳ ở miền Saint Louis bên bờ sông Mississipi.
Đến New Orleans thuộc tiểu bang Lousiane, cụ gặp nhiều người di cư đi tìm miền đất hứa: Người da trắng châu Âu, người Hoa, thổ dân Da Đỏ, Mễ Tây Cơ (Mexico), Trung Cận Đông… Trong số họ, có một người đến từ Gia Nã Đại (Canada) tên là Maxk mang tư chất thủ lĩnh.
Maxk đứng ra tập hợp được 60 người lập thành đoàn đi miền Tây tìm vàng. Để có tiền mua phương tiện, lương thực, đồ dùng, mỗi thành viên góp 200 Mỹ kim. Nhờ biết nhiều thứ tiếng, lại nhanh nhẹn, cử chỉ đĩnh đạc đường hoàng, Lê Kim được Maxk chọn làm người thông ngôn kiêm trợ lý.
Chuyến đi vô cùng gian khổ, nhiều người đã chết trên đường bởi đói khát, tật bệnh, thú dữ cùng những tính xấu nảy sinh của con người khi gần với vàng. Sau khi tách đoàn (số đông đi về phương Bắc), nhóm hướng về phương Nam chỉ còn tám người (trong đó có Maxk và Lê Kim).
Đồn Sutter bên bờ sông Sacramento là đồn nổi tiếng và lớn nhất vùng California khi ấy. Tên của người chỉ huy (Đại úy Sutter) đến từ Canada được lấy đặt cho đồn. Sutter có quê hương là nước Thụy Sỹ, nhưng được sinh ra ở một thành phố của Đức.
Lúc đầu, ông tới New York, nhưng ở đó lộn xộn, nhiễu nhương quá nên đã chuyển sang miền Tây. Ở đây, sự nghiệp của Sutter phát đạt rất nhanh: Nhiều của, lắm quyền hành. Thấy Lê Kim là người châu Á, đến từ miền đất ở bên cạnh nước Trung Hoa, lại biết nhiều thứ tiếng, phong cách lịch thiệp, Sutter rất thiện cảm, cho đi thăm cơ sở của mình.
Nhờ đó Lê Kim biết được cách xây đồn cùng tổ chức bố phòng. Có tài liệu nói John A Sutter đã từng được Chính phủ Mỹ phong hàm tướng bởi đã góp công xây dựng California buổi ban đầu.
Nhưng rồi theo quy luật ở đời, hoa nở nhanh thì mau tàn, cuộc cạnh tranh máu lửa vì vàng đã mau chóng làm đổ vỡ cơ đồ của ngài Đại úy Sutter trở thành người mất trí, lang thang không cửa không nhà. Tình cờ Lê Kim gặp lại người đã từng giúp đỡ mình thuở hàn vi và đã biếu Sutter 200 Mỹ kim cùng những lời động viên.
Cử chỉ ấy có mạch nguồn từ đạo lý uống nước nhớ nguồn của dân tộc Việt Nam. Lê Kim sớm nhận thấy mặt trái của vàng cùng những hệ lụy của xã hội hỗn canh hỗn cư. Hai năm sau, vào năm 1850, Lê Kim đi tìm công việc mới.
Lúc đầu làm cộng tác viên chạy tin bài cho các tờ báo địa phương: Alta California, Morning Post. Sau đó, được nhận vào làm trong Tòa soạn báo Daily Evening với bút danh Lee Kim. Như vậy, cụ Trần Trọng Khiêm là người Việt Nam đầu tiên đặt chân tới nước Mỹ và cũng là ký giả đầu tiên của nước ta tới tác nghiệp ở đây.
Quá mệt mỏi với cuộc sống hỗn loạn nơi đất khách, nỗi nhớ quê nhà luôn canh cánh trong lòng, cụ Trần Trọng Khiêm quyết định hồi hương. Đến Hồng Kông, cụ nhập quốc tịch Trung Quốc, rồi về Việt Nam trong thân phận người Minh Hương (người Hoa di cư) với họ tên là Lê Kim.
Năm 1854, Lê Kim về tới Nam Bộ, liền bắt tay ngay cùng bạn bè khai khẩn đất hoang lập nên ấp Hòa An thuộc phủ Tân Thành, tỉnh Định Tường (nay là Sa Đéc tỉnh Đồng Tháp).
Sau 10 năm, người anh ruột ở Xuân Lũng nhận được lá thư bằng chữ Nôm của cụ Khiêm gửi về. Hiểu được nỗi lòng của em, nhưng hoàn cảnh khi ấy buộc phải phúc đáp thư như sau: Gia đình bình yên. Lúc này người đi xa chớ vội trở về!
Cụ Khiêm lập gia đình với người phụ nữ Nam Bộ họ Phan, sinh hạ được 2 người con trai đặt tên là Lê Xuân Lãm và Lê Xuân Lương. Lấy chữ Xuân để nhớ làng Xuân Lũng.
Công việc và đời sống đang được dần dần ổn định, thì thực dân Pháp đánh chiếm 3 tỉnh miền Tây Nam Kỳ (1864) gây ra biết bao đau thương tang tóc. Cụ đã cùng nhà yêu nước Thiên Hộ Dương (Võ Duy Dương) chiêu mộ được tới hàng ngàn nghĩa binh, lập căn cứ chống Pháp ở Đồng Tháp Mười.
Nghĩa quân có liên hệ với các phong trào khởi nghĩa của Trương Công Định, Thủ Khoa Huân... Tài bắn súng học được của các cao bồi thực thụ ở miền Tây Hoa Kỳ, kinh nghiệm xây đồn đắp lũy của Đại úy Sutter được vận dụng.
Vốn ngoại ngữ được dùng vào việc binh vận. Nghĩa quân đã đánh nhiều trận ở Cai Lậy, Mỹ Trà, Mỹ Quối, Cao Lãnh... Về sau, viên tướng người Pháp là De Lagrandiere đã dùng lực lượng lớn tấn công vào Đồng Tháp Mười.
Nghĩa quân bị tổn thất nặng nề rồi thất bại. Không để mình bị bắt, rơi vào tay giặc, nhà lãnh đạo nghĩa quân Lê Kim đã tuẫn tiết vào năm 1886, hưởng dương 65 tuổi. Trước khi mất, cụ dặn vợ đưa con lánh sang Rạch Giá, không bao giờ hợp tác với giặc.
Con cháu truyền đời dùng chữ Xuân làm tên đệm để nhớ về làng Xuân Lũng, sống nghĩa tình, không ham phú quý cầu vinh, tham vàng bỏ ngãi… Thi hài của cụ được nghĩa quân mai táng ở Giồng Tháp. Trên bia mộ có ghi: Lòng trời không tựa, tấm gương tiết nghĩa vì nước quyên sinh/ Chính khí nêu cao, tinh thần hùng nhị còn truyền hậu thế.