Dân Việt

Nơi 3 công chúa con vua Trần Nghệ Tông về mua đất sình lầy làm ruộng, nay là vùng nào ở Thái Bình?

Quang Viện 18/12/2023 14:18 GMT+7
Tương truyền, ba công chúa con vua Trần Duệ Tông (1337 - 1376) là Quý Minh, Bảo Hoa và Quang Ánh cùng Gia Từ hoàng hậu rời bỏ kinh thành về miền quê ven biển Thái Bình mua đất bãi sình lầy hoang hóa lập điền, thực hiện chính sách hạn điền, hạn nô và dinh điền của triều đình đồng thời khai khẩn đất hoang tăng nghiệp canh nông.
Trong chuyến điền dã, nhóm nghiên cứu văn hóa dân gian phát hiện cả ba ngôi đền thờ Quý Minh công chúa, Bảo Hoa công chúa và Quang Ánh công chúa đều có treo 3 đôi câu đối có nội dung câu từ giống hệt nhau.

Tương truyền, ba công chúa con vua Trần Duệ Tông (1337 - 1376) là Quý Minh, Bảo Hoa và Quang Ánh cùng Gia Từ hoàng hậu rời bỏ kinh thành về miền quê ven biển mua đất bãi sình lầy hoang hóa lập điền, thực hiện chính sách hạn điền, hạn nô và dinh điền của triều đình đồng thời khai khẩn đất hoang tăng nghiệp canh nông. 

Công chúa Quý Minh dựng chùa thờ Phật ở làng Thượng Liệt (xã Đông Tân, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình ngày nay), dạy dân trồng lúa, chăn tằm kéo tơ và dạy dân điệu múa giáo cờ, giáo quạt.

Công chúa Bảo Hoa về thôn Trung Liệt (xã Thái Giang, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình ngày nay) dựng chùa đi tu.

Công chúa Quang Ánh về thôn Quài Miễu (nay là thôn Thanh Miếu, xã Thái Sơn, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình) tu tại gia...

Nơi 3 công chúa con vua Trần Nghệ Tông về mua đất sình lầy làm ruộng, nay là vùng nào ở Thái Bình? - Ảnh 1.

Trong chuyến điền dã, nhóm nghiên cứu văn hóa dân gian chúng tôi phát hiện cả ba ngôi đền thờ Quý Minh công chúa, Bảo Hoa công chúa và Quang Ánh công chúa đều có treo 3 đôi câu đối có nội dung câu từ giống hệt nhau:

Nhất môn phấn đại tam trinh tiết

Vạn cổ huân cao tứ đại từ

Tạm dịch:

Son phấn một nhà ba trinh tiết

Nửa hương muôn thuở bốn đền thiêng

Một số nhà nghiên cứu Hán Nôm cho rằng ở đất Thái Bình có bốn đền thiêng thường được nhắc đến trong các văn tự cổ là đền Đồng Bằng, đền Mẫu Tiên La, đền Đồng Xâm và đền Hệ, đó chính là “tứ đại từ”. 

Nhưng có ý kiến không đồng nhất quan điểm “tứ đại từ” kể trên bởi lẽ vế đối nhắc đến “son phấn” ý chỉ sự trang điểm của người con gái mà bốn đền trên chắc chắn không có. 


Câu chữ cũng đã thể hiện khá rõ “một nhà ba trinh tiết” nghĩa là cùng một nhà có ba cô con gái còn trinh tiết. 

Vế đối thứ hai là một câu đố: “Nửa hương muôn thuở bốn đền thiêng”, ba ngôi đền thờ ba công chúa thì đã quá rõ, nhưng còn một đền nữa ở đâu?

Lần theo cách gọi “ruộng miễn hoàn” từ thời nhà Trần ở Thượng Liệt (xã Đông Tân, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình); Trung Liệt (Thái Giang, Thái Thụy); Quài Miễu (nay là Thanh Miếu, Thái Sơn, Thái Thụy), nhóm nghiên cứu đến làng Trình Nhất, xã An Ninh, huyện Tiền Hải tìm về đền Nội Hon, nơi đây cũng có số “ruộng miễn hoàn” giống như ba nơi thờ ba công chúa nhà Trần để lý giải về thân phận ngôi đền thứ tư. 

Làng Trình Nhất xưa kia là đầm lầy, lau lách thuộc huyện Thanh Lan (nay là huyện Thái Thụy). Tương truyền, Gia Từ hoàng hậu cùng nhóm gia nô nhà Trần đã về đây khai thiên lập địa, xây dựng trang ấp, dạy dân cấy cày, vui nghiệp nông tang. Gia Từ hoàng hậu cho xây am Nội Hon và xuống tóc đi tu. 

Sau khi bà mất, dân làng an táng bà ở cánh đồng miễn hoàn, dựng đền thờ và tạc phiến đá ghi bốn chữ “Thiết Lăng Đại Vương” ở mộ bà. 

Năm 1828, triều đình nhà Nguyễn đã “cắt” làng Trình Nhất nhập về huyện Tiền Hải. Bối cảnh cuối triều đại nhà Trần năm 1373, khi vua Duệ Tông (tên húy là Kính, sinh ngày 2 tháng 6 năm Đinh Sửu, dương lịch là năm 1337), là con thứ 11 của vua Trần Minh Tông, mẹ đẻ của ông là cô ruột của Lê Quý Ly, tên hiệu là Đôn Từ Hoàng Thái phi, được vua anh là Nghệ Tông truyền ngôi. 

Duệ Tông làm vua thì sự nghiệp triều Trần đang trên đà xuống dốc, các vị “vua sáng, tôi hiền” đã không còn mà thay vào đó là triều chính nghiêng ngả, một số gian thần như Lê Quý Ly, Đỗ Tử Bình lũng đoạn triều đình. 

Phía Nam, quân Chiêm Thành liên tục quấy rối, xâm phạm biên cương. Duyên cớ bắt nguồn từ chuyện Duệ Tông đem quân đi chinh phạt Chiêm Thành, do nôn nóng bình Chiêm nên đã sa bẫy quỷ của Chế Bồng Nga mà tử trận. 

Theo các nguồn khảo luận, thế kỷ XIV, Đại Việt thường bị Chiêm Thành đem quân cướp bóc, xâm chiếm đất đai, nhiều lần chúng kéo ra tận Thăng Long quấy nhiễu. Thấy vậy, Duệ Tông ra sức xây dựng quân đội, muốn dùng binh lực áp chế Chiêm Thành. 

Sử cũ chép, năm 1376, Chế Bồng Nga đem quân khiêu chiến Đại Việt, Duệ Tông sai Đỗ Tử Bình đi đánh. Chế Bồng Nga vờ sợ hãi, xin dâng 10 mâm vàng tạ tội. Tử Bình tham của giấu vàng đi rồi về triều tâu với Dụ Tông rằng chúa Chiêm kiêu ngạo không thần phục. 

Nghe vậy Duệ Tông ức lắm liền quyết định thân chinh đi bình Chiêm mặc cho các đại thần ra sức khuyên can. Tháng 12 năm 1376, Duệ Tông đem 12 vạn quân đánh Chiêm Thành, lấy được đồn Thạch Kiều, thừa thắng tiến đánh kinh thành Đồ Bàn nước Chiêm. Chế Bồng Nga lập mưu trốn ngoài thành nhưng sai người giả vờ đầu hàng, lại còn rủa Chế Bồng Nga hèn hạ bỏ thành chạy trốn. 

Duệ Tông thấy vậy càng nôn nóng tiến đánh ngay nhưng tướng Đỗ Lễ nhận thấy điều bất thường liền can ngăn. Duệ Tông bỏ ngoài tai, nói với quân sĩ rằng: “Ta mình mặc giáp, tay cầm gươm, dãi gió dầm mưa, lội sông trèo núi, vào sâu trong đất giặc, không một người nào dám chống lại, đó là trời giúp. Huống chi nay chúa Chiêm nghe tiếng bỏ trốn, không có lòng đánh lại. 

Cổ nhân nói “Dụng binh quý ở nhanh chóng”, nay lại dùng dằng không tiến nhanh, thế là trời cho mà không lấy, để nó lại có mưu khác thì hối không kịp”. 

Nói rồi Duệ Tông thúc quân tiến đánh. Đợi cho Duệ Tông vào sâu trong thành, quân Chiêm bất ngờ chặn đánh, Duệ Tông cùng các tướng Đỗ Lễ, Nguyễn Nạp Hòa, Hành khiển Phạm Huyền Linh bị hãm trong thành và tử trận. Lúc đó Đỗ Tử Bình được giao hậu quân nhưng không tới cứu ứng cho Duệ Tông, Lê Quý Ly thấy thế bỏ chạy. 

Thượng hoàng Trần Nghệ Tông nghe tin Duệ Tông tử trận sợ hãi lên thuyền cùng gia nô chạy về Thiên Trường. Bờ cõi tạm yên, xét công lao vì việc nước mà tử trận, Thượng hoàng Trần Nghệ Tông xót xa cho lập đàn chiêu hồn Dụ Tông chôn ở Hy Lăng và lập con của Duệ Tông là Kiến Đức đại vương Trần Hiện lên ngôi vua (tức Trần Phế Đế). 

Thái tử Trần Hiện lúc này mới 16 tuổi, còn non nớt, chưa thể cứu vãn cơ nghiệp đế vương nhà Trần đang trên đà suy sụp. Biết rõ điều đó, Gia Từ hoàng hậu liền hết lời van xin Thượng hoàng Trần Nghệ Tông đừng đưa con trai mình lên ngôi nhưng Thượng hoàng không nghe. 

Sách Đại Việt sử ký toàn thư (bản kỷ, quyển 8, tờ 13 a) chép rằng: “Hậu từ chối không được bèn khóc lóc nói với những người thân thích rằng con ta phúc bạc, khó lòng gánh vác nổi trách nhiệm lớn, nó đến phải tai họa vì việc đó thôi. Tiên hoàng xa lìa cõi thế, kẻ chưa chết này chỉ muốn chết theo, không muốn trông thấy việc đời nữa, huống chi lại phải nhìn thấy con mình sắp bị nguy hiểm”. 

Nói rồi, Gia Từ hoàng hậu đem ba công chúa rời kinh thành hoa lệ cùng đám gia nô, thân tộc tìm về trấn Sơn Nam đầm lầy lau lách xuống tóc đi tu. Không lâu sau, Trần Phế Đế đã bị Thượng hoàng Trần Nghệ Tông ép phải thắt cổ chết.

Ông Đào Hồng, nguyên Trưởng phòng Nghiệp vụ, Bảo tàng tỉnh Thái Bình:

Gia Từ hoàng hậu đưa ba công chúa của mình chạy về trấn Sơn Nam, tìm đến những nơi đầm lầy lau lách không bóng người qua lại để dựng cơ nghiệp nhằm trốn chạy sự truy sát của bọn gian thần khi triều đình không còn “vua sáng, tôi hiền”.

Sau khi vua Trần Duệ Tông tử nạn, Gia Từ hoàng hậu đã tiên đoán chính xác kết cục thê thảm của Thái tử Trần Hiện (con trai bà). Ba cô công chúa sống sót đều đi tu theo bà nên khi chết vẫn còn trinh tiết vì thế ba ngôi đền đều có ba đôi câu đối với nội dung giống hệt nhau.

Tại đền Nội Hon (làng Trình Nhất, xã An Ninh, huyện Tiền Hải) trong cung cấm còn cỗ ngai cổ có bài vị đề “Thiết Lăng Đại Vương bà Gia Từ hoàng hậu”, đây chính là bài vị thờ Gia Từ hoàng hậu vợ vua Trần Duệ Tông. Câu đố trong vế đối thứ hai đã được hé lộ.

Ông Nguyễn Văn Giáo, công chức văn hóa xã An Ninh, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình:


Đền Nội Hon là công trình kiến trúc độc đáo, hiện đang xuống cấp nghiêm trọng, địa phương không có kinh phí tôn tạo, tu bổ, kinh phí chủ yếu dựa vào nguồn xã hội hóa.

Trước năm 1954, số ruộng miễn hoàn vẫn được người dân trong làng cấy lúa, sau năm 1954 chia lại ruộng đất, số ruộng miễn hoàn được lấy ra chia đều cho dân nghèo.

Nằm trong khu ruộng miễn hoàn có ngôi mộ cổ, trên đặt phiến đá khắc chữ Hán Nôm, người dân không biết chữ Hán Nôm chỉ nghe bập bõm “Thiết Lăng” đọc thành “Thiết Năng” nên cứ tưởng đây đền thờ vị tướng đàn ông.

Ông Đỗ Xuân Cầm, trưởng ban quản lý đền Nội Hon, xã An Ninh, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình:

Tấm bia đá đề “Thiết Lăng Đại Vương” ở ngôi mộ cổ (hiện giờ bị san phẳng) trùng khớp với bài vị thờ trong cung cấm “Thiết Lăng Đại Vương bà Gia Từ hoàng hậu” cho thấy đền Nội Hon chính là nơi thờ vợ vua Trần Duệ Tông khi bà cùng đám gia nô nhà Trần về làng Trình Nhất khai khẩn đất hoang, dựng am để tu hành.

Do những biến cố của lịch sử, đền Nội Hon bị phá dỡ chỉ còn một gian cung cấm. Trong cung cấm còn cỗ ngai có bài vị thờ Gia Từ hoàng hậu, bên trên đề “Tối linh từ”, bên trong có đôi câu đối cổ ghi: “Tài thần hợp thành tam nghĩa tại/Uy linh trịnh tứ nhất trung thần”. Phần lạc khoản có ghi: “Xuân Vương chính nguyệt”.