Tổng chủ biên SGK Tiếng Việt 1: "Nếu bỏ chữ p trong sách thì tội tôi to lắm
Tổng chủ biên SGK Tiếng Việt 1: "Nếu bỏ chữ p trong sách thì tội tôi to lắm, có thể bỏ tù được rồi"
Tào Nga
Thứ năm, ngày 24/02/2022 17:22 PM (GMT+7)
Trước thông tin âm p (pờ) bị "loại" khỏi chương trình học, PGS.TS. Bùi Mạnh Hùng, Tổng chủ biên kiêm Chủ biên SGK Tiếng Việt 1, Bộ Kết nối tri thức với cuộc sống đã chính thức lên tiếng.
Mới đây, dư luận hoang mang trước ý kiến của thầy Đào Quốc Vịnh, hiệu trưởng Trường Tiểu học Tô Hiến Thành, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội. Thầy Vịnh cho rằng, trong sách giáo khoa Tiếng Việt 1, bộ Kết nối tri thức với cuộc sống của Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam, tác giả đã hoàn toàn loại bỏ âm p (pờ) ra khỏi chương trình học. Điều này dẫn tới hệ lụy về mặt ngôn ngữ của học sinh cũng như dịch thuật...
Chia sẻ với PV báo Dân Việt, PGS.TS. Bùi Mạnh Hùng, Tổng chủ biên kiêm Chủ biên SGK Tiếng Việt 1, Bộ Kết nối tri thức với cuộc sống cho biết: "Tôi không hiểu tại sao mọi người sẵn sàng chia sẻ ý kiến mà không có cơ sở gì. Nhiều người nói sách bỏ hẳn chữ p. Nếu bỏ chữ p thì tội tôi to lắm, có thể bỏ tù được rồi".
Theo PGS.TS. Bùi Mạnh Hùng, dư luận đang hiểu lầm giữa chữ p và âm p: "Xin khẳng định, bảng chữ cái trong SGK Tiếng Việt 1, bộ Kết nối có đầy đủ 29 chữ cái theo quy định của Bộ GDĐT (trang 12, tập một). Đây là quy định "cứng", không có bất kỳ bộ SGK nào dám thay đổi và không có lý do gì để thay đổi. Ở nhiều bài học trong bộ sách này, học sinh được học và luyện viết chữ p qua ngữ liệu là những từ như đèn pin, cặp da, cá mập, lốp xe, tia chớp, bếp, bìm bịp, búp sen,… (trang 78, 118, 120, 124,… tập một). Ở tập hai, trong các văn bản đọc thì số các từ có chữ p không thể tính hết. Vì vậy, ý kiến cho Tiếng Việt 1, bộ Kết nối không dạy chữ p là hoàn toàn không có cơ sở".
Vấn đề là dạy âm p (pờ) (được ghi bằng chữ p, chữ pê) như thế nào, PGS.TS. Bùi Mạnh Hùng cho hay: "Trong tiếng Việt, âm p xuất hiện chủ yếu là cuối âm tiết; trong một số trường hợp, xuất hiện đầu âm tiết. Trước hết, xin nói về việc dạy âm P cuối âm tiết (hiện tượng phổ biến). Qua loạt bài dạy vần ở tập một như ap, ăp, âp (trang 118); op, ôp, ơp (trang 120); ep, êp, ip, up (trang 124),… và những từ như đã nêu ở trên (cặp da, cá mập, lốp xe, tia chớp, bếp, bìm bịp, búp sen,…) thì có thể thấy rõ, SGK Tiếng Việt 1, bộ Kết nối, có dạy âm P cuối và dạy nhiều.
Còn về việc dạy âm đầu P (pờ), tất cả các bộ sách Tiếng Việt 1 đều phải đạt được mục tiêu: Học xong lớp 1, học sinh có khả năng đọc được các từ như đèn pin, Sa Pa, Nậm Pì,… Tuy nhiên, các bộ sách có thể có những cách khác nhau.
Cách thứ nhất: Dạy âm đầu p (âm pờ) trong bài dạy âm ph (âm phờ). Trước khi học âm ph, các em được luyện đọc âm p, chứ không học âm p riêng và không có từ ứng dụng riêng cho âm đầu p.
Cách thứ hai: Dạy âm p riêng và đưa những "từ ứng dụng" như pi-a-nô/piano, pa-nô/panô để học sinh tập đọc và phát triển vốn từ.
SGK Tiếng Việt 1 của Bộ GDĐT (theo chương trình Tiếng Việt năm 2000) đã áp dụng cách thứ nhất và rất quen thuộc với đông đảo giáo viên dạy Tiếng Việt lớp 1 trên cả nước trong 20 năm qua. SGK Tiếng Việt 1, bộ Kết nối, kế thừa cách dạy này. Sau khi làm quen, tập đọc âm p ngay trước khi học âm ph, học sinh được luyện đọc âm đầu p trong một số bài học sau đó, chẳng hạn, khi học vần "in", các em luyện đọc và viết từ đèn pin (trang 78, tập một), luyện đọc từ Sa Pa trong đoạn văn viết về Tây Bắc (trang 105 tập một) và trong bài đọc Ruộng bậc thang ở Sa Pa (trang 154, tập hai).
PGS.TS. Bùi Mạnh Hùng, Tổng chủ biên kiêm Chủ biên SGK Tiếng Việt 1, Bộ Kết nối tri thức với cuộc sống khẳng định bộ Kết nối có đầy đủ 29 chữ cái theo quy định của Bộ GDĐT. Ảnh: NVCC
Vì sao chúng tôi chọn cách thứ nhất (đồng thời cũng là lựa chọn kế thừa cách dạy của SGK Tiếng Việt 1 năm 2000 của Bộ GDĐT)?
Âm p và ph đều được học trong phần âm, ở khoảng tuần 5 hoặc tuần 6 của lớp 1. Nếu dạy âm p riêng thì cần phải có "từ ứng dụng" để học sinh tập đọc và phát triển vốn từ. Những từ này chỉ chứa các âm tiết mở (bộ phận vần chỉ có 1 nguyên âm), nghĩa là buộc phải dùng những từ như pi-a-nô/piano, pa-nô/panô,….; không thể dùng các từ như Sa Pa, Nậm Pì,… vì 2 lí do.
Thứ nhất, học sinh chưa được học âm s (trong Sa Pa) và vần âm (trong Nậm Pì). Thứ hai, thông thường, tên riêng không được dùng ở phần dạy phát triển vốn từ. Mới chỉ được học 5 – 6 tuần mà học sinh phải đọc và hiểu nghĩa của những từ như pi-a-nô/piano, pa-nô/panô,…. là không phù hợp. Chắc hẳn nhiều người sẽ e ngại vì học sinh lớp 1, mới đến trường mấy tuần, mà phải đọc, viết và hiểu nghĩa của những từ không quen thuộc như vậy.
Tóm lại, Tiếng Việt 1, bộ Kết nối, có dạy chữ p (chữ pê), âm đầu và âm cuối p (pờ) (ghi bằng chữ p). Tất cả đều dạy theo cách quen thuộc với giáo viên dạy Tiếng Việt lớp 1 trên cả nước trong nhiều năm qua".
PGS.TS. Bùi Mạnh Hùng chia sẻ thêm: "Trong tiếng Việt, trong khi âm cuối p được mặc nhiên thừa nhận dựa trên hàng loạt cứ liệu thực tế như các từ đã được nêu trên (cặp da, cá mập, lốp xe, tia chớp, bếp, bìm bịp, búp sen,…) thì nhiều nhà Ngữ âm học hàng đầu, "ông tổ" của ngành Ngữ âm học Việt Nam, không coi tiếng Việt có âm đầu p (xem Đoàn Thiện Thuật, Ngữ âm học tiếng Việt, Đại học Quốc gia Hà Nội, 1999, trang 157 – 158; Hoàng Tuệ và Hoàng Minh (Cao Xuân Hạo), Remarks on the Phonological Structure of Vietnamese, Vietnamese Studies: No 40, p. 76).
Như vậy, nếu có coi tiếng Việt có âm đầu p thì đó không phải là việc hiển nhiên và âm đầu p không phải có vị trí "bình đẳng" như các âm đầu khác trong tiếng Việt. Âm này xuất hiện trong các từ vay mượn như: pi-a-nô/piano, pê-đan/pêđan, pa-nô/panô, pê-nê-xi-lin,…, các âm tiết được viết liền hoặc có dấu nối.
Ngoài ra, âm đầu p có thể xuất hiện ở một số tên riêng (Sa Pa, Nậm Pì,…). Trong miêu tả ngữ âm học, tất cả các hiện tượng ngữ âm thuộc từ vay mượn mà chưa Việt hóa (pi-a-nô/piano, pê-nê-xi-lin, pê-đan/pêđan, pa-nô/panô,…), tên riêng (Sa Pa, Nậm Pì,…), cùng với từ tượng thanh, từ cổ,… đều thuộc hiện tượng ngữ âm "ngoại biên", không được lấy làm ngữ liệu để miêu tả hệ thống âm vị của một ngôn ngữ".
Vui lòng nhập nội dung bình luận.