Vợ đứng tên tài sản, có thể yêu cầu phân chia tài sản khi ly hôn không?

Thành Nam Thứ sáu, ngày 26/07/2024 15:40 PM (GMT+7)
Theo luật sư, trường hợp xác định đó là tài sản riêng của vợ thì người vợ sẽ toàn quyền sở hữu tài sản đó. Còn nếu là tài sản chung hai vợ chồng sẽ chia tài sản theo Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
Bình luận 0

Câu hỏi: 

Bạn đọc Nguyễn Văn Đại, ở Hà Nội hỏi về cách chia quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hôn: 

Hai vợ chồng tôi đang thực hiện thủ tục chia tài sản để giải quyết yêu cầu thuận tình ly hôn. Vợ tôi hiện đứng tên trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với căn nhà. Với những tài sản này, tôi có quyền yêu cầu chia tài sản không? 

Trả lời:

Luật gia Trần Quốc Tuấn (Đoàn Luật sư TP Hà Nội) cho biết, muốn phân chia tài sản khi ly hôn, hai vợ chồng phải phân định được tài sản đó là tài sản chung hay riêng của vợ, chồng. Trường hợp xác định đó là tài sản riêng của vợ thì người vợ sẽ toàn quyền sở hữu tài sản đó; còn nếu là tài sản chung hai vợ chồng sẽ chia tài sản theo Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Cụ thể, Khoản 1, Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình quy định tài sản chung của vợ chồng gồm: Tài sản do vợ chồng tạo ra; thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh; hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp đặc biệt quy định tại khoản 1 Điều 40 Luật này.

Tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.

Vợ đứng tên tài sản, có thể yêu cầu phân chia tài sản khi ly hôn không?- Ảnh 2.

Theo luật gia Trần Quốc Tuấn (Đoàn Luật sư TP.Hà Nội), muốn phân chia tài sản khi ly hôn, hai vợ chồng phải phân định được tài sản đó là tài sản chung hay riêng của vợ, chồng. Ảnh minh họa.

Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.

Điều 34 Luật này quy định trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng, thì giấy chứng nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng phải ghi tên cả 2 vợ chồng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Trường hợp, nếu giấy chứng nhận chỉ ghi tên một người, khi phát sinh tranh chấp nếu không có căn cứ để chứng minh tài sản đó là tài sản riêng của mỗi bên, tài sản đó được coi là tài sản chung.

Điều 43 Luật Hôn nhân và gia đình quy định, tài sản riêng của vợ hoặc chồng gồm: Tài sản mà mỗi người có được trước khi kết hôn; tài sản thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định của luật này; tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ, chồng và tài sản khác mà pháp luật quy định thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng.

Tài sản hình thành từ những tài sản riêng này cũng được coi là tài sản riêng của vợ, chồng. Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng trong thời kỳ hôn nhân được coi là tài sản chung của vợ, chồng. Sau khi chia tài sản, những tài sản được chia sẽ trở thành tài sản riêng.

Từ những căn cứ nói trên, theo luật sư, khi xác định được đó là tài sản chung, tài sản riêng, việc chia tài sản sẽ được giải quyết theo quy định tại Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình 2014.

Điều 59. Nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn

1. Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định thì việc giải quyết tài sản do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì theo yêu cầu của vợ, chồng hoặc của hai vợ chồng, Tòa án giải quyết theo quy định tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều này và tại các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật này.

Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận thì việc giải quyết tài sản khi ly hôn được áp dụng theo thỏa thuận đó; nếu thỏa thuận không đầy đủ, rõ ràng thì áp dụng quy định tương ứng tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều này và tại các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật này để giải quyết.

2. Tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố sau đây:

a) Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng;

b) Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập;

c) Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập;

d) Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng.

3. Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật, nếu không chia được bằng hiện vật thì chia theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần chênh lệch.

4. Tài sản riêng của vợ, chồng thuộc quyền sở hữu của người đó, trừ trường hợp tài sản riêng đã nhập vào tài sản chung theo quy định của Luật này.

Trong trường hợp có sự sáp nhập, trộn lẫn giữa tài sản riêng với tài sản chung mà vợ, chồng có yêu cầu về chia tài sản thì được thanh toán phần giá trị tài sản của mình đóng góp vào khối tài sản đó, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác.

5. Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.

6. Tòa án nhân dân tối cao chủ trì phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Tư pháp hướng dẫn Điều này.

Mời các bạn đồng hành cùng báo Dân Việt trên mạng xã hội Facebook để nhanh chóng cập nhật những tin tức mới và chính xác nhất.
Tin cùng chuyên mục
Xem theo ngày Xem