Làm sao thu hút 100 nhân tài, chuyên gia Việt kiều về nước? - Đàn “sói con” cần người dẫn dắt đúng tầm (Bài 5)

Việt Nam có hàng triệu sinh viên giỏi. Chúng ta không thiếu "sói con". Cái thiếu là người dẫn dắt đúng tầm. Một nhà lãnh đạo đúng tầm có thể phát huy tối đa sức mạnh tập thể, còn một người dẫn đường sai sẽ dễ làm lạc hướng cả thế hệ.

LTS: Tại Hội nghị của Ban Chỉ đạo T.Ư về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số sơ kết công tác 6 tháng đầu năm và nhiệm vụ trọng tâm 6 tháng cuối năm 2025 thực hiện Nghị quyết 57-NQ/TW, Tổng Bí thư Tô Lâm đã yêu cầu Bộ Nội vụ chủ trì khẩn trương xây dựng, ban hành cơ chế, chính sách thu hút nguồn nhân lực, nhân tài khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số trong và ngoài nước...

Đặc biệt, Tổng Bí thư yêu cầu xây dựng chính sách đãi ngộ đặc biệt (vượt khung lương, nhà ở, môi trường làm việc) để thu hút ít nhất 100 chuyên gia hàng đầu về nước làm việc”, đề nghị nghiên cứu xây dựng cơ sở dữ liệu về lực lượng trí thức trong và ngoài nước (bao gồm người Việt Nam ở nước ngoài) đang hoạt động trong các lĩnh vực khoa học, công nghệ để phục vụ công tác hoạch định chính sách nhân lực chất lượng cao.

Nhân dịp này, báo Dân Việt triển khai loạt bài
“Làm sao thu hút 100 nhân tài, chuyên gia Việt kiều về nước?” giúp bạn đọc có cái nhìn toàn diện hơn xung quanh lời hiệu triệu của Tổng Bí thư Tô Lâm, qua đó có thể thấy được giá trị to lớn, cấp thiết của việc kêu gọi các nhà khoa học, chuyên gia Việt kiều quay trở về đóng góp cho sự phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Câu chuyện trở về không đơn thuần là một quyết định nghề nghiệp

Ông Nguyễn Huy - Trưởng Ban Công nghệ của Hiệp hội Dữ liệu Quốc gia, hồi tưởng lại thời điểm quyết định rời tập đoàn Google để trở về Việt Nam cũng như chia sẻ góc nhìn về chủ trương của Đảng và Nhà nước thu hút 100 chuyên gia Việt kiều về nước.

Trong cuộc trò chuyện với Dân Việt, ông Huy không dừng ở chính sách, mà nói về bản chất cảm giác “được về nhà”, quyền tự chủ trong công việc, và vai trò của người dẫn dắt trong một hệ sinh thái đang khát khao kiến tạo đột phá nội sinh cũng như khát vọng về một cuộc cách mạng nội sinh thực sự trong khoa học – công nghệ tại Việt Nam.

Ông Huy phân tích, “sandbox thể chế” không đơn thuần là không gian cho công nghệ thử nghiệm, mà là môi trường để ươm mầm các thủ lĩnh công nghệ bản địa – những người đủ tầm để dẫn dắt một thế hệ mới.

Giống như cách Trung Quốc từng triển khai chiến dịch “China One Thousand”, Việt Nam cũng cần những người về nước không phải để thay thế, mà để dẫn dắt. Vì kỷ nguyên mới không thể được mở ra bởi 100 cá nhân, mà bởi hàng triệu sinh viên – được truyền cảm hứng, được uốn nắn, và được dẫn dắt đúng cách.

“Ngày nay Việt Nam cũng vậy, chúng ta không thể bước vào kỷ nguyên mới chỉ với 100 nhân tài được mời về mà phải bước vào kỷ nguyên này với 10 triệu sinh viên ra trường”, ông Huy nhấn mạnh và khẳng định: “Việt Nam có hàng triệu sinh viên giỏi chúng ta không thiếu "sói con”. Cái thiếu là người dẫn dắt đúng tầm”. Vì vậy, điều quan trọng là chúng ta phải tìm được những người đầu đàn giỏi để dẫn dắt đàn "sói con", đó mới là điều quan trọng.

Ông đánh giá thế nào về chỉ đạo mới đây của Tổng Bí thư Tô Lâm về việc xây dựng cơ chế vượt khung để thu hút 100 chuyên gia hàng đầu về nước?

- Cá nhân tôi rất vui mừng khi chứng kiến lãnh đạo cấp cao ngày càng thể hiện sự chủ động trong việc tận dụng nguồn lực trí tuệ Việt toàn cầu để đồng hành cùng đất nước trong giai đoạn chuyển mình chiến lược.

Đây không chỉ là một chủ trương đơn thuần, mà tôi cho rằng đó là một bước đi mang tính thời điểm, đúng người, đúng việc và đúng lúc. Chúng ta đang ở giai đoạn dân số vàng – một cơ hội mang tính lịch sử. Nếu không tận dụng, rất có thể sẽ lỡ mất nhịp tăng trưởng kế tiếp.

Trưởng Ban Công nghệ của Hiệp hội Dữ liệu Quốc gia Nguyễn Huy. Ảnh: DV

Trên thực tế, các quốc gia như Trung Quốc, Hàn Quốc hay Indonesia đều đã đi con đường này và gặt hái nhiều thành công. Việt Nam bây giờ đang bước vào quỹ đạo tương tự, nhưng với đặc thù riêng và thách thức riêng do đó cần một cơ chế thực sự vượt khung, linh hoạt và đồng bộ để chính sách không dừng lại ở khẩu hiệu.

Với chính sách lần này, cá nhân tôi tin tưởng – bởi đây không chỉ là tín hiệu chính trị, mà là tầm nhìn chiến lược cho cả một thế hệ đổi mới tiếp theo của Việt Nam.

Đã từng làm việc cho Google, ông có thể chia sẻ những suy nghĩ của mình với tư cách là một chuyên gia, những người giỏi trong lĩnh vực công nghệ cần gì ở chính sách của Nhà nước, ngoài vấn đề lương, nhà ở?

- Từ kinh nghiệm cá nhân, tôi cho rằng câu chuyện trở về không đơn thuần là một quyết định nghề nghiệp – nó là một quyết định gắn với cảm xúc rất sâu. Trước hết, người ta phải thực sự cảm thấy rằng đây là “nhà” là nơi họ thuộc về, được sống và cống hiến cho quê hương một cách có ý nghĩa.

Họ đã có nhà ở, đã có mức lương tốt, thậm chí là sự nghiệp vững chắc tại nước ngoài. Điều họ cần, không phải là thêm một khoản hỗ trợ nữa mà là cảm giác được chào đón, được lắng nghe và được tin tưởng, là sự bảo đảm rằng họ có thể mang tri thức của mình về đóng góp và không bị bó hẹp.

Tôi đã và đang cố gắng kêu gọi nhiều người bạn, đồng nghiệp tại Google và các tập đoàn lớn ở Mỹ trở về. Nhưng rất khó để ngồi đây và bảo họ: “Về đi”. Điều đó sẽ làm đảo lộn toàn bộ nhịp sống cá nhân, gia đình, thậm chí là thế giới quan của họ. Tất nhiên, nhà ở, xe cộ, lương bổng vẫn là yếu tố nhưng những yếu tố đó chỉ là điều kiện cần. Quyết định thực sự đến từ niềm tin – niềm tin rằng họ đang đi con đường tương lai của chính mình.

Tôi tin rằng, thời điểm này, việc chuyên gia Việt kiều quay về không còn là điều xa lạ. Khi tôi trở về cách đây 5 năm, bạn bè từng gọi đó là “điên rồ”. Nhưng giờ thì nhiều người đã trở về và quan trọng hơn, họ đang hình thành một cộng đồng cùng nhau kiến tạo, cùng nhau tiến bộ.

Trước khi quyết định về nước, điều đầu tiên quan trọng nhất là họ phải tin đã. Họ phải về Việt Nam để thấy đất nước đang phát triển như thế nào, cảm thấy nhịp đập như thế nào và cảm thấy sự chào đón từ quê hương đối với họ như thế nào.”,, 

Ông Nguyễn Huy

- Trưởng ban Công nghệ Hiệp hội dữ liệu quốc gia.

Explus Graphic

Với cá nhân ông, sau một thời gian về làm việc, ông cảm thấy rằng bao lâu để quen với môi trường công việc tại Việt Nam?

- Đối với cá nhân tôi, đó là một hành trình gập ghềnh. Hai năm đầu tiên, đó không phải là quyết định cá nhân mà do ảnh hưởng của nhiều yếu tố bên ngoài. Khoảng thời gian này tôi đã trải qua rất nhiều cột mốc đáng nhớ và có nhiều bài học sâu sắc.

Khoảng 2-3 năm trước, tôi quay về Mỹ và có thời gian để suy nghĩ về hành trình của mình, học những bài học đã học và trở lại mạnh mẽ hơn. Bản thân tôi là một người không bao giờ bỏ cuộc, rất kiên trì với mục tiêu. Sau khi suy nghĩ rất nhiều, tôi nhận thấy rằng Việt Nam vẫn là nơi tôi muốn về và muốn cống hiến.

Khi Nghị quyết 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị ban hành, bản thân tôi nhìn nhận đó là một cột mốc rất quan trọng với cá nhân mình. Bởi vì cuối cùng niềm tin của mình về việc Việt Nam sẽ có giai đoạn phải vươn mình và sẽ có những người lãnh đạo để thúc đẩy cho giai đoạn phát triển lịch sử của dân tộc đã thực sự đến.

“Chúng ta không bước vào kỷ nguyên mới với 100 nhân tài được mời về, mà với 10 triệu sinh viên ra trường”

Việt Nam mong muốn ứng dụng công nghệ để phát triển hơn, nhiều người nói về mô hình sandbox thể chế. Theo ông, sandbox thể chế ở Việt Nam khác gì và liệu có thể xây dựng được mô hình như Mỹ, Hàn Quốc, mô hình sandbox nào sẽ phù hợp với Việt Nam?

- Phân tích một chút trong góc nhìn cá nhân trong vấn đề về công nghệ của Việt Nam. Từ khi về nước, năm nào tôi cũng đưa người Việt đi thi tin học thế giới. Có một điều thú vị rằng 20 năm qua, năm nào Việt Nam cũng có vài trường đại học được đi thi chung kết của tin học thế giới. Nếu gọi trong bóng đá, Việt Nam chỉ mong ước có một ngày đội tuyển bóng đá được dự World Cup thì trong lĩnh vực khoa học công nghệ, tin học, năm nào các đoàn Việt Nam cũng có.

Quan trọng hơn, không phải chỉ trường đại học ở Việt Nam mà sinh viên Việt Nam tại các trường trên thế giới cũng có mặt rất nhiều. Điều đó có nghĩa về mặt kiến thức, nền tảng công nghệ của giới trẻ của chúng ta rất tốt. Khi vận hành công ty, tôi thấy năng lực của các bạn trẻ đầy tiềm năng để khai thác và phát huy.

Như vậy chúng ta có cả một đàn sói con, một đàn hổ con chứ chúng ta không phải cừu non công nghệ. Nhưng vì sao khi ở một tầm lớn hơn, cạnh tranh hơn, chúng ta chưa cạnh tranh một cách sòng phẳng được? Tôi nghĩ vấn đề không phải ở đàn "sói con", mà là ở việc thiếu những "con sói" đầu đàn.

Trí tuệ trẻ Việt Nam không hề kém cạnh so với thế giới. Ảnh: VGP/Đức Tuân

Vậy bài toán đó cần phải lật lại. Điều chúng ta còn thiếu không phải là nhân lực chất lượng mà là những người dẫn dắt thực sự có tầm nhìn, kinh nghiệm và năng lực khai mở.

Nên sandbox ở đây là làm sao đưa được nhân tài ở nước ngoài về nhưng không phải để thay thế đàn sói, chúng ta phải tìm thêm những người đầu đàn giỏi để dẫn dắt đàn sói con, đó mới là điều quan trọng. Chúng ta chỉ có khoảng 5 triệu người Việt ở hải ngoại, trong khi ở Việt Nam chúng ta có 100 triệu người, vì vậy, việc kêu gọi người tài trở về chỉ là giải pháp tức thời trong thời điểm hiện tại.

Nhìn sang các nước bên cạnh, Trung Quốc khoảng 20 – 30 năm trước đã phát động chiến dịch “China One Thousand” để mang người Trung Quốc từ khắp thế giới về dẫn dắt thế hệ công ty đầu tiên như Alibaba, Baidu, Tencent… để ngày hôm nay các công ty này đều đã trở thành những tập đoàn tỷ đô. Họ không phải mang 1.000 người đó về để xây dựng, kiến tạo mà để trở thành người dẫn dắt cho hàng triệu em sinh viên mới ra trường, uốn nắn họ về cả tinh thần, quy trình, tri thức.

Nếu dự án 100 chuyên gia lần thứ 2 thành công, theo ông, tương lai Việt Nam sẽ thay đổi như thế nào? Có thể gọi đây là cuộc cách mạng khoa học nội sinh của Việt Nam không?

- Tôi cho rằng, về mặt chủ trương, đây là bước đi hết sức đúng đắn và mang tính chiến lược. Nếu triển khai thành công, đây chắc chắn sẽ là một dấu mốc quan trọng – một bước ngoặt mang tầm vóc lịch sử trong tiến trình phát triển khoa học và công nghệ của Việt Nam.

Thực tế, thời gian qua đã có không ít chuyên gia Việt kiều trở về đóng góp – và làn sóng này đã bắt đầu hình thành từ trước khi chính sách lần hai được ban hành. Tuy nhiên, gọi đó là một “cuộc cách mạng” thì tôi nghĩ cần một điều kiện đủ: chính là những gì mà các chuyên gia trở về sẽ thật sự làm được, tạo ra được.

Tức là, chúng ta không thể tuyên bố có một cuộc cách mạng chỉ từ chủ trương. Nhưng nếu chủ trương ấy dẫn đến một thế hệ nhân tài được khơi thông, được phát huy và tạo ra những giá trị mang tính nền tảng, thì tôi tin đó chính là khởi đầu của một cuộc cách mạng khoa học nội sinh mà Việt Nam đã chờ đợi suốt nhiều thập kỷ qua.

Ông từng chia sẻ rằng công nghệ chỉ thực sự có giá trị khi tạo ra một cuộc sống mới – thuận tiện hơn, thông minh hơn. Nhưng để công nghệ phát triển, chắc chắn cần sự hỗ trợ mạnh mẽ cho đội ngũ nhân tài. Theo ông, các nhà hoạch định chính sách cần cụ thể hóa điều đó như thế nào?

- Thực ra, tôi cho rằng các bước đi hiện nay của Chính phủ đã đúng hướng. Việc nhận diện được nhu cầu cấp thiết phải thu hút các chuyên gia cấp cao, ban hành các chương trình như “Vietnam One Hundred”, xây dựng quỹ hỗ trợ và quan trọng nhất là tạo ra môi trường để trao quyền thực chất – tất cả đều là những tín hiệu rất tích cực.

Tuy nhiên, để các chính sách này thực sự đi vào đời sống, điều quan trọng là sự kiên định và đồng bộ. Trên hành trình triển khai, chắc chắn sẽ có những điều chỉnh, những ý tưởng mới phát sinh. Nhưng ở thời điểm hiện tại, tôi nhìn thấy một sự cam kết nghiêm túc từ các nhà lãnh đạo – điều đó đã rất đáng quý.

Về phần mình, tôi nghĩ quyết định quay trở về của một chuyên gia luôn mang tính cá nhân cao. Đó không chỉ là quyết định nghề nghiệp mà còn là quyết định về niềm tin vào tương lai, vào đất nước và vào chính bản thân mình.

Vì thế, bên cạnh chính sách, truyền thông cần đóng vai trò dẫn dắt cảm xúc và tạo dựng niềm tin. Chúng ta cần để cộng đồng nhân tài toàn cầu thấy rằng: đây không chỉ là lời mời gọi từ một quốc gia đang phát triển, mà còn là một cơ hội mang tính lịch sử để cùng kiến tạo một tương lai mới – nơi họ có thể thuộc về, có thể cống hiến và có thể tạo dấu ấn cá nhân thực sự.

Xây dựng niềm tin ấy không thể chỉ trong một sớm một chiều. Đó là một hành trình dài, đòi hỏi sự kiên nhẫn, nhất quán và chiến lược truyền thông xuyên suốt. Nhưng tôi tin, nếu chúng ta làm được, làn sóng chuyên gia trở về sẽ không chỉ là hiện tượng mà sẽ trở thành xu thế.

- Xin trân trọng cảm ơn ông về cuộc trò chuyện này.

Minh Huệ - Vũ Khoa thực hiện

Các mốc chính sách lớn về thu hút, trọng dụng nhân tài Việt kiều (giai đoạn từ 2004 – 2025)

Năm 2004: Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết 36-NQ/TW về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài, khẳng định kiều bào là “bộ phận không tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam”, khuyến khích trí thức, chuyên gia tham gia xây dựng đất nước.

Năm 2008: Chính phủ ban hành Nghị quyết 27/NQ-CP triển khai Nghị quyết 36, tạo điều kiện cho chuyên gia, trí thức kiều bào về nước nghiên cứu, giảng dạy, hợp tác khoa học – công nghệ.

Năm 2010: Quốc hội sửa đổi, bổ sung Luật Quốc tịch Việt Nam, cho phép người Việt Nam ở nước ngoài giữ song tịch, tháo gỡ rào cản pháp lý để kiều bào thuận lợi hơn khi về nước làm việc, đầu tư.

Năm 2015: Ban Bí thư ban hành Chỉ thị 45-CT/TW về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết 36, nhấn mạnh việc thu hút, trọng dụng trí thức, doanh nhân, chuyên gia kiều bào trong các ngành khoa học – công nghệ, giáo dục, kinh tế.

Năm 2021: Đại hội XIII của Đảng tiếp tục xác định trí thức kiều bào là nguồn lực quan trọng cho sự phát triển đất nước, kêu gọi cơ chế đãi ngộ phù hợp để họ phát huy năng lực.

Năm 2023: Chính phủ thông qua Chiến lược quốc gia về thu hút và trọng dụng nhân tài đến năm 2030, tầm nhìn 2045, trong đó nhấn mạnh đến việc thu hút trí thức Việt Nam ở nước ngoài trong các lĩnh vực công nghệ lõi, đổi mới sáng tạo.

Năm 2025 – Bộ Khoa học và Công nghệ cùng các bộ, ngành đang xây dựng cơ chế ưu đãi đặc biệt để thu hút trí thức kiều bào, đặc biệt trong lĩnh vực AI, bán dẫn, chuyển đổi số và năng lượng sạch.