Chữ Quốc ngữ, cũng như chữ Nôm, xuất hiện từ bao giờ và do ai nghĩ ra đầu tiên thì cho đến nay vẫn chưa có câu giải đáp. Có lẽ quốc ngữ được đặt ra khoảng cuối thế kỷ XVI đầu thế kỷ XVII, khi các giáo sĩ đến nước ta truyền đạo. Trải qua những biến động thăng trầm của thời gian và lịch sử, chữ Quốc ngữ vẫn tồn tại, trở thành biểu tượng của đất nước và dân tộc Việt Nam. Khám phá xin trân trọng giới thiệu đến quý độc giả loạt bài về lịch sử hình thành và phát triển của chữ Quốc ngữ.
Thời kỳ phát triển : Jean Baptiste Pétrus Trương Vĩnh Ký (1837- 1898)
Trương Vĩnh Ký thông thạo 27 thứ tiếng Âu và Á, cả sinh ngữ lẫn tử ngữ. Thoạt đầu, ông làm thông ngôn cho Pháp, sau chuyên dạy học tiếng Việt (cho người Pháp) và ngoại ngữ như tiếng Pháp, tiếng Cao-mên, tiếng Lào... Ông còn viết sách về đủ mọi loại: dạy học, sưu tầm, nghiên cứu... phần lớn bằng quốc ngữ. Trương Vĩnh Ký là người Việt đầu tiên đã triệt để khai thác chữ quốc ngữ bằng sách báo, viết hay dịch sách từ chữ Hán ra quốc âm.
Jean Baptiste Pétrus Trương Vĩnh Ký (1837- 1898)
Nếu A. de Rhodes có công phổ biến chữ quốc ngữ thì cũng chỉ phổ biến trong giới hạn truyền giáo, Trương Vĩnh Ký mới là người thực sự phổ biến rộng rãi chữ quốc ngữ trong dân gian, bất kể người có đạo hay không. Ông là người có công đầu trong việc đưa chữ quốc ngữ từ lĩnh vực truyền giáo sang địa hạt văn chương. Nhờ Trương Vĩnh Ký, chữ quốc ngữ mới được dành một địa vị quan trọng trong văn hóa Việt.
Thời kỳ trưởng thành: Nam Phong và Phạm Quỳnh (1892-1945) - Tự Lực Văn Ðoàn
Phạm Quỳnh tốt nghiệp trường Cao đẳng Tiểu học. Ông bắt đầu làm việc Trường Viễn Ðông Bác Cổ, năm 1917 làm chủ nhiệm kiêm chủ bút tạp chí Nam Phong, đến năm 1932 thì vào Huế giữ chức Ngự Tiền Văn Phòng (Ðổng lý), rồi Thượng Thư bộ Học và bộ Lại.
Tên tuổi Phạm Quỳnh gắn liền với tờ Nam Phong, viết bằng ba thứ tiếng: Quốc ngữ, Hán và Pháp. Chữ quốc ngữ lúc này đã tiến một bước khá dài trên lĩnh vực nghệ thuật so với thời Trương Vĩnh Ký: từ ngữ đầy đủ để diễn tả những vấn đề phức tạp như triết lý, nghị luận… một cách tinh vi, tuy đôi khi còn nặng nề vì mượn ở Hán tự. Tuy nhiên, thời kỳ này cũng đã xuất hiện những cây bút linh hoạt như Phạm Duy Tốn với văn phong chẳng kém gì thời sau (thời của Tự Lực Văn Ðoàn).
Ảnh bìa Nam Phong Tạp chí và Phạm Quỳnh.
Thời kỳ chữ Hán phải nhường ngôi. Tự Lực Văn Ðoàn được thành lập năm 1933 với nhóm nòng cốt gồm :
Nhất Linh tức Nguyễn Tường Tam (1905-1963)
Hoàng Ðạo tức Tứ Linh, Nguyễn Tường Long (1907-1948)
Thạch Lam tức Nguyễn Tường Lân (1910-1942)
Khái Hưng tức Trần Khánh Dư (1896-1947)
Thế Lữ tức Nguyễn Thứ Lễ (1907-1989), có chỗ chép là Nguyễn Ðình Lễ
Tú Mỡ tức Hồ Trọng Hiếu (1900-1976)
Sau đó, Tự Lực Văn Đoàn mở rộng đón thêm những người mới như Xuân Diệu, Ðỗ Ðức Thu... Mỗi người một vẻ, một biệt tài : trào phúng như Tú Mỡ; tâm lý với Nhất Linh, Khái Hưng hay lãng mạn, rùng rợn với Thế Lữ…
Tuy quốc ngữ bắt đầu trưởng thành từ thời Nam Phong song trên thực tế người ta nghĩ đến văn quốc ngữ là nghĩ ngay đến Tự Lực Văn Ðoàn. Với Tự Lực Văn Ðoàn, quốc ngữ đã lột xác, thoát ly ảnh hưởng Hán học, chịu ảnh hưởng của Pháp văn, trở nên trong sáng bình dị, gây hứng thú cho người đọc. Từ đó, chữ quốc ngữ đã đi sâu vào đại chúng. Tự Lực Văn Ðoàn có công phổ biến văn quốc ngữ và nhờ quốc ngữ, Tự Lực Văn Ðoàn đã "lừng lẫy" một thời.
Chữ Hán thời suy
Tuy quốc ngữ dễ học và tiện lợi nhưng không phải được tất cả mọi người hoan nghênh ngay. Bởi quốc ngữ do các giáo sĩ Tây phương đặt ra, lại do một số thông ngôn áp dụng buổi đầu, những người này thường thiếu đức độ, dựa thế Tây hống hách, nên phần đông Nho gia có thành kiến đối với quốc ngữ. Họ cho rằng học quốc ngữ là vong bản, là vọng ngoại. Đến khi quốc ngữ trở nên môn thi bắt buộc từ năm 1909 thì một số Nho sĩ thà là bỏ thi cử, bỏ nguyện vọng một đời, còn hơn học thứ chữ “con nòng nọc” ấy.
Gia Định báo là tờ báo đầu tiên được in bằng chữ Quốc ngữ.
Trần Quý Cáp, thuộc số người hiếm, nhận định rõ giá trị của quốc ngữ, đã gọi nó mà “hồn trong nước” song cũng không tìm cách phổ biến; Phan Bội Châu đọc được quốc ngữ nhưng đi đâu cũng có thư ký kèm theo để ghi những sáng tác bằng quốc âm, và tự mình ghi lấy những sáng tác bằng chữ Hán.
Chữ quốc ngữ được đặt ra để tiện việc truyền giáo nhưng đã vượt xa mục tiêu truyền giáo buổi đầu của các giáo sĩ để trở nên một công cụ truyền thông rất thuận tiện cho người Việt. Ðó là một may mắn không nhỏ cho Việt Nam vì các giáo sĩ cũng đã tìm cách ghi âm tiếng Nhật, tiếng Trung Hoa nhưng không thành công như ở nước ta và Indonesia, hai nước dùng được máy chữ mẫu tự la-tinh.
Nhà Nho trọng chữ Hán, chê quốc ngữ đã đành, người dân quê không biết chữ cũng chê: “Học làm quái gì thứ chữ cò quăm mách qué ấy, chữ thánh hiền nào lại có chữ thánh thế? Thánh nào lại dậy nhảm nhí những con cua, con ốc ấy, đến đàn bà con trẻ nó cũng thừa biết nữa là”.
Dù Khoa cử đã bị bãi từ 1919, dân ta vẫn tiếp tục tôn sùng chữ Hán. Chữ Hán vẫn được coi là thứ chữ để “chở đạo” của thánh hiền, không được vứt một tờ giấy có chữ Hán xuống đất, thấy nó rơi dưới đất phải nhặt lên chứ không được giẫm lên trên, không được đem sách chữ Nho ra mà gối đầu…
Nguyễn Tuân kể: "Ngày xưa ra đường, cái điều danh dự tối thiểu của bậc Nho gia chân chính là mỗi khi thấy chữ thánh hiền vương vãi xuống đất phái cúi mình xuống nhặt lên và để vào những cái bồ nhất định (nếu tôi không nhớ lầm thì những bồ đó các cụ gọi là Kính tích tự chỉ”.
Và đây là hình ảnh một cụ đồ sùng bái chữ Nho dưới ngòi bút châm biếm của Ðặng Thai Mai: "Thấy trời sắp mưa mà quần áo còn phơi trên dây, cụ phải sang nhà hàng xóm mượn cái sào dài để khều cái váy của cụ bà vì “tay giở sách thánh hiền ai lại đưa ra cầm một cái váy đàn bà” (…). Cụ bắt học sinh thấy một tờ giấy có dấu chữ thì bất kỳ ở đâu đều phải nhặt bỏ vào một cái sọt riêng mà cụ đặt ở một chỗ cao ráo trong nhà, rồi cứ đến tối ngày rằm là khiêng ra bờ suối mà đốt, đốt xong hốt hết đống tro tàn đổ xuống dòng nước, cho trôi theo “trường lưu thủy”.
PV (Khám Phá)
Vui lòng nhập nội dung bình luận.