Trưng Trắc và Trưng Nhị (?-43): Hai chị em Trưng Trắc và Trưng Nhị là tấm gương điển hình nhất về hình mẫu của người phụ nữ Việt Nam anh hùng. Ngay từ thuở đầu của lịch sử, Hai Bà Trưng đã vượt qua mọi định kiến hà khắc về phụ nữ của lễ giáo phong kiến để đứng lên cầm vũ khí, kéo quân ra trận, đánh đuổi quân xâm lược, giành lại độc lập. Ngay sau khi phất cờ khởi nghĩa, Hai Bà đánh vào Luy Lâu, khiến viên Thái thú Tô Định phải "cắt tóc, cạo râu, vứt bỏ ấn tín, trà trộn vào đám loạn quân tháo chạy về nước". Đúng như lời tuyên thệ của Hai Bà trước khi khởi nghĩa: Một xin rửa sạch nước thù / Hai xin dựng lại nghiệp xưa họ Hùng.
Lê Chân (20-43): Nữ tướng sinh ra ở làng An Biên, huyện Đông Triều, xứ Đông (nay thuộc xã Thủy An, huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh). Bị viên thái thú Tô Định hung ác hãm hại bố mẹ, nợ nước, thù nhà, bà chiêu mộ quân sĩ, ngày đêm luyện tập, chờ cơ hội báo thù. Biết tin Hai Bà Trưng dựng cờ khởi nghĩa, bà hết lòng đi theo. Kháng chiến thắng lợi, Lê Chân được giao trọng trách Chưởng quản binh quyền nội bộ, đóng đại bản doanh ở Giao Chỉ và trấn thủ miền Đông Bắc. Năm 41, nhà Hán sai Mã Viện làm Phục Ba tướng quân, chỉ huy đại binh đánh nước ta. “Lê Chân cùng Hai Bà Trưng và nhiều nữ tướng khác đã tham gia những trận đánh ác liệt ở vùng hồ Lãng Bạc (Bắc Ninh) ngày nay. Trận đánh phá vây ở Cẩm Khê, Hai Bà Trưng và nữ tướng Lê Chân đã hy sinh. Không chỉ có công đánh giặc cứu nước, bà còn có công chiêu mộ dân phu, khai khẩn đất hoang, lập vùng đất thuộc TP Hải Phòng ngày nay.
Lê Thị Hoa (2-43): Theo ghi chép của thần tích đền Thượng Linh, nữ tướng Lê Thị Hoa sinh ra ở huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Chồng bị Tô Định hãm hại, bà phải trốn vào vùng Nga Sơn (Thanh Hóa). Biết tin Hai Bà Trưng phát động khởi nghĩa, bà đem toàn bộ lực lượng của mình, gồm trên 2.000 người, hăng hái tham gia. Sau khi đánh đuổi được Tô Định, bà xin trở lại với vùng Nga Sơn tổ chức khai hoang. Năm 43, Mã Viện đem đại binh sang đàn áp, bà lại đem lực lượng của mình ra chống trả rất quyết liệt cho đến khi anh dũng hy sinh. Hiện nay, xã Nga Thiện, huyện Nga Sơn còn có đền thờ cùng đôi câu đối phản ánh rất rõ lý tưởng của bà: Thề trả mối thù với Tô Định, trừ khử giặc Bắc / Giữ nghĩa phò Trưng Vương, khôi phục nước Nam.
Triệu Thị Trinh (225-248): Nối tiếp tinh thần của Hai Bà Trưng, sau gần 2 thế kỷ, vùng núi Cửu Chân (Thanh Hóa) xuất hiện phụ nữ anh hùng khác là Triệu Thị Trinh. Lời tuyên thệ của bà đã đi vào sử sách: "Tôi chỉ muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá kình ở biển Đông, lấy lại giang sơn, dựng nền độc lập, cởi ách nô lệ, chứ không chịu khom lưng làm tì thiếp cho người". Không cam chịu làm phận lẽ cho viên quan Đông Ngô cai trị, bà cùng anh trai là Triệu Quốc Đạt trốn lên núi, dấy binh khởi nghĩa, đánh đuổi quân đô hộ. Nhận xét về bà, chính sử nhà Nguyễn viết: "Con gái nước ta có nhiều người hùng dũng lạ thường. Bà Triệu Ẩu thật xứng đáng là người sánh vai được với Hai Bà Trưng".
Dương Khoan Khoáng (?-546): Bà quê ở trang Báo Văn, xứ Hồ Kì (tỉnh Vĩnh Phúc ngày nay), được xem là nữ tướng nổi tiếng, có công lớn cùng Lý Nam Đế lập nước Vạn Xuân. Khi thành Gia Ninh vỡ, vua Lý Nam Đế vào miền Khuất Lão tập hợp lực lượng, nữ tướng Dương Khoan Khoáng vẫn cùng đạo quân của mình đánh giặc, chiến đấu dũng cảm trong suốt hai năm (545-546) cho đến khi bị trọng thương và hy sinh trong trận chiến tại Yên Lạc. Sau khi bà mất, nhân dân nhớ ơn Khoan Khoáng, nhiều nơi lập đền thờ. Các triều đại sau này truy phong bà làm “Đệ nhị á nương Khoan Khoáng đại vương mỹ mạo linh dung”.
Phạm Thị Uyển (?-722): Bà Phạm Thị Uyển, vợ Mai Hắc Đế, được xem là hoàng hậu đầu tiên trong lịch sử nước ta từng cầm quân đánh giặc. Theo sử sách, bà quê ở quận Nam Xương (Cầu Giấy, Hà Nội ngày nay). Vốn là người có chí khí, văn võ song toàn, am hiểu binh thư, sách lược đánh trận, bà thường bàn luận việc cơ mật với Mai Thúc Loan. Khi nhà Đường mang 100.000 quân sang đàn áp khởi nghĩa, bà Phạm Thị Uyển đưa binh thuyền bày trận trên sông Tô Lịch, chiến đấu dũng cảm. Khi sức cùng lực kiệt, bà cùng số ít binh tướng nhảy xuống sông Tô Lịch tự vẫn. Ngày nay, đền Dục Anh nằm trên đường Nguyễn Ngọc Vũ, quay mặt ra sông Tô Lịch, đoạn gần cầu Trung Hòa, chính là đền thờ bà.
Ngọc Dung công chúa (?-1426): Theo sử sách, bà Lê Thị Ngọc Dung, quê ở huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình ngày nay. Bà nổi tiếng xinh đẹp, văn hay, giỏi võ. Biết tin Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn, bà đứng ra tổ chức đội dân binh, chuẩn bị vũ khí, lương thảo, tìm đường vào Lam Sơn. Thấy côn quyền, cung kiếm của Ngọc Dung đều giỏi, dung nhan xinh đẹp, lại mang họ Lê, Lê Lợi nhận làm con gái nuôi, sau lại phong làm tả hữu tỳ tướng, giao cho trọng trách lập căn cứ đánh giặc ở vùng ven biển Sơn Nam Hạ. Năm 1426, bà hy sinh trong trận quyết chiến với quân thù tại cửa Đại Toàn. Khi Lê Lợi lên ngôi vua, đã truy phong bà là “Biển thức đoan trang, trinh thục từ hòa, đoan chính Phương Nương đại vương”, cho lập đền thờ phụng. Người dân tôn bà là thành hoàng với duệ hiệu là “Thánh mẫu, đương cảnh Thành hoàng Ngọc Dung công chúa”.
Nguyễn Thị Bành (?-?): Trong lịch sử Việt Nam, đóng giả thành nam nhi để ra trận chỉ có bà Nguyễn Thị Bành. Đây là nữ tướng nổi tiếng trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, vợ của Nguyễn Chích. Trong suốt cuộc đời mình, bà Nguyễn Thị Bành luôn sát cánh cùng chồng. Nhờ tài trí của bà, Nguyễn Chích nhiều lần thoát khỏi vòng vây của kẻ thù. Bà và Nguyễn Chích còn huấn luyện được đội quân bồ câu nổi tiếng trong lịch sử, lập được nhiều chiến công. Sau khi nhà Lê thành lập, có những lúc Nguyễn Chích gặp bất lợi trên quan trường, bị phế truất, bà động viên, an ủi, sát cánh cùng chồng vượt qua khó khăn.
Bùi Thị Xuân (1760-1802): Bà vốn người làng Xuân Hòa (Bình Định ngày nay), nổi tiếng về nhan sắc, sức mạnh, thích đóng giả làm con trai, múa kiếm, đi quyền. Sau khi kết duyên cùng Trần Quang Diệu, vợ chồng bà là trụ cột, khai quốc công thần của nhà Tây Sơn. Cả 2 góp công lớn, giúp vua Quang Trung - Nguyễn Huệ đánh tan quân Xiêm (năm 1785) và quân Thanh (năm 1789).
Nguyễn Thị Định: Nữ tướng xứng đáng với 8 chữ vàng "Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang”. Từ thủ lĩnh của đội quân tóc dài trong phong trào Đồng Khởi ở Bến Tre, bà trở thành nữ tướng đầu tiên của nước ta trong thế kỷ XX. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Phó tư lệnh giải phóng miền Nam là cô Nguyễn Thị Định. Cả thế giới chỉ nước ta có vị tướng quân gái như vậy. Thật là vẻ vang cho miền Nam, cho dân tộc ta”.
Nguyễn Thanh Điệp (Zing)
Vui lòng nhập nội dung bình luận.