Nguyễn Quán Nho (1638 - 1708) người làng Vạn Hà, huyện Thụy Nguyên, trấn Thanh Hoa (nay là huyện Thiệu Hoá, Thanh Hoá). Mồ côi cha từ nhỏ, nhà nghèo nên gia đình luôn trong cảnh túng thiếu, mẹ ông phải đi làm thuê, cuốc mướn tần tảo nuôi con nhưng vẫn không đủ ăn.
Do không có điều kiện đi học nên khi đi chăn trâu, làm ruộng về, ngang qua lớp học của thầy đồ làng, Nguyễn Quán Nho thường đứng nấp bên ngoài, vừa áp tai vào vách nghe lỏm lời giảng, vừa lấy que vạch xuống đất tập viết.
Không có tiền mua giấy bút, Nguyễn Quán Nho dùng que gai làm bút, lấy lá chuối làm giấy, lấy vỏ trứng bắt đom đóm bỏ vào trong để làm đèn học buổi đêm. Ông thầy đồ làng thấy Quán Nho có chí học tập, thông minh, sáng dạ nên rất yêu mến thường chỉ dạy thêm, lại cho giấy bút và ít nhiều tiền bạc để mua giấy mực, mua dầu thắp đèn.
Có những năm mùa đông tháng giá kéo dài, nhà không còn cái ăn nên Nguyễn Quán Nho đành phải đến những nhà khá giả trong làng giả cách mượn nồi, niêu về nấu nhưng thực ra là để vét những cơm thừa, miếng cháy dính trong nồi… Hàng xóm thấy lạ là khi Quán Nho trả nồi bao giờ nồi cũng sạch bong, họ dần hiểu chuyện, nhiều người khi cho mượn nồi cố tình để lại nhiều cơm cháy cho hai mẹ con.
Mặc dù cuộc sống rất khó khăn nhưng được mẹ và bà con làng xóm khuyến khích giúp đỡ khiến Nguyễn Quán Nho quyết chí học tập, theo đòi nghiên bút.
Qủa nhiên trời không phụ lòng người, năm 30 tuổi ông đỗ Tiến sĩ kỳ thi Hội năm Đinh Mùi (1667) đời Lê Huyền Tông. Sau này khi đã làm quan to trong triều, Nguyễn Quán Nho mỗi lần về thăm quê đều nhắc lại ơn cưu mang, giúp đỡ của người làng, còn người dân cũng từ câu chuyện ấy mà gọi ông là Trạng Cháy.
Giai thoại còn kể rằng, hôm Nguyễn Quán Nho vinh quy bái tổ về làng, trong khi chức dịch và dân chúng tấp nập kiệu cáng, cờ quạt rước xách để chào đón thì mẹ ông vẫn bình thản ra ao làng vớt bèo về nuôi lợn, lý trưởng làng Vạn Hà mời bà về dự lễ nhưng bà gạt đi mà nói rằng:
- Thi đỗ là việc của con tôi, còn tôi còn đang bận vớt bèo!
Khi đám rước về đến làng, Nguyễn Quán Nho nghe kể lại chuyện ấy liền vội vàng xuống khỏi võng điều, cởi áo gấm, phẩm phục, nhanh chân đi ra ao làng xắn quần, cầm gậy gom bèo lại vớt cùng mẹ cho đến khi đầy rổ hai mẹ con mới về dự tiệc cùng làng. Về sau ca dao xứ Thanh có câu thành ngữ “Vinh quy bái tổ sau rổ bèo đầy” là vì vậy.
Bước vào chốn quan trường, với tài năng và đức độ của mình, đường quan lộ của Nguyễn Quán Nho thênh thang rộng mở, ông lần lượt kinh qua nhiều chức vụ cao cấp, từ Phó đô Ngự sử (1684); Tả Thị lang Bộ Lại (1691); Thượng thư Bộ Binh rồi Thượng thư Bộ Lại (1692); rồi được làm Tham tụng (Tể tướng), tước Hương Giang bá; lại năm lần đi sứ Trung Quốc, làm quan trải đời vua. Có câu đối ca tụng ông như sau:
“Bái tướng, phong công tứ triều nguyên lão/ Trung quân, ái quốc thiên cổ hoàn nhân”.
Nghĩa là: Làm tướng, lập công trải bốn triều đứng hàng đệ nhất/ Phò vua, yêu nước xưa nay xứng là bậc vẹn toàn.
Chân dung Nguyễn Quán Nho treo tại nhà thờ ông ở thôn Dương Hòa, xã Thiệu Hưng, huyện Thiệu Hóa, Thanh Hóa
Mặc dù ở vị trí cao, quyền chức lớn nhưng Nguyễn Quán Nho sống giản dị liêm khiết, chăm lo việc công, hết lòng thương yêu gần gũi dân, đồng cảm với những người nghèo túng, đói khổ nên được nhân dân ca tụng là “Tể tướng Vạn Hà, thiên hạ âu ca”. Sách Đại Nam quốc sử diễn ca viết về vị quan lớn quê ở đất xứ Thanh này bằng câu:
"Bởi ai thiên hạ âu ca/ Chẳng quan Tham tụng Vạn Hà là chi".
Có lần về quê thấy dân đang làm đường, đắp đê sông Chu, ông cho voi và quân lính ra phụ dân, người Vạn Hà xúc động ngâm nga:
"Ai về làng Vạn mà coi/ Coi ông quan Thượng cho voi làm đường".
Dân gian thường có câu “người có đức hay gặp may”, một trong những cái may của Nguyễn Quán Nho đó là may mắn về đường tình duyên.
Thuở còn hàn vi, một lần Nguyễn Quán Nho có việc đi qua vùng Lỵ Nhân (nay thuộc huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam), lúc đó trời đã tối mịt mà mưa đã bắt đầu lác đác rơi. Thấy bên đường có ngôi nhà lớn, vẻ chừng khá giả, vẫn còn sáng đèn, ông đánh liều gọi cửa xin vào ngủ trọ một đêm. Nghe tiếng gọi, ông chủ nhà vội hối thúc đày tớ mau mau mở cửa đón người, rồi cũng vội bước ra, dường như ông đã biết trước có quý nhân tới nhà.
Thế nhưng khi giáp mặt, thái độ của ông chủ thay đổi hẳn bởi trước mặt ông chỉ là một chàng thanh niên tuy mặt mũi khôi ngô nhưng ăn vận xuềnh xoàng, dáng bộ của một nông phu.
Sở dĩ ông chủ làm thế bởi đêm trước, ông bỗng có một giấc mộng lạ, trong giấc mơ ông thấy có người đến nói rằng ngày mai sẽ có quan Nghè ghé qua nhà. Tỉnh dậy, cho là điềm lạ, ông sai gia nhân quét tước, dọn dẹp nhà cửa sạch sẽ, lại chuẩn bị cơm nước đầy đủ, thế nhưng chờ suốt cả ngày vẫn không thấy có ai đến. Mãi tới khi trời tối, ông vẫn hi vọng nên cho chong đèn, chưa vội đóng cổng, chốt cửa đợi người.
Ai dè khi có tiếng gọi cửa, bước vào nhà chẳng phải là ông quan áo gấm hài thêu gì mà chỉ là một anh chàng quê mùa đến xin ở nhờ. Thất vọng, ông chủ định cất tiếng từ chối thì vừa lúc trong nhà, cô con gái thứ hai của ông chạy ra. Thấy trời đã tối, mưa dần đổ xuống, tình cảnh của người lỡ đường thật là ái ngại, cô liền thưa với cha rằng:
- Con thấy anh đây trông bộ chất phác, hiền lành, không phải là kẻ gian. Giờ nhà ta không cho ngủ nhờ thì anh ấy biết đi đâu.
Ông chủ nhà vốn cũng là người phúc đức, nghe con nói có lý, có tình nên đồng ý cho Nguyễn Quán Nho ở lại. Riêng có cô con gái cả của ông, từ trong nhà nhìn ra thấy chàng trai dáng vẻ dân thường thì lườm mắt, bĩu môi tỏ vẻ không tán thành.
Bước vào nhà, ông chủ cho Nguyễn Quán Nho biết mình họ Nguyễn, gia cảnh cũng khá, nhưng hiềm một nỗi người vợ mất sớm, nhà chỉ sinh được hai con gái. Hỏi han đôi lát, thấy mặt Nguyễn Quán Nho xanh xao, ông chủ mới hay người khách lạ từ chiều đến giờ chưa có gì lót dạ. Ông chủ gọi đày tớ sai đi đong gạo, nhóm bếp nấu cơm; nhưng cô con gái út của ông đã nhanh nhẹn tự tay làm cả, chỉ một lát niêu cơm đã chín. Cô gái còn luộc thêm một quả trứng, bóc vỏ sẵn cho vào đĩa để đãi khác. Lúc người hầu bưng mâm cơm lên, ông chủ mở lồng bàn ra thì chỉ thấy bát mắm, còn quả trứng trên đĩa đã “không cánh mà bay”.
Vừa ngạc nhiên, vừa lúng túng, tỏ vẻ ngượng với khách, nhưng Nguyễn Quán Nho biết ý đã vụi vẻ nói rằng:
Tôi vốn dân nghèo, quen với cơm rau, dưa cà đạm bạc rồi, nay lỡ đường vừa được ngủ nhờ, lại được gia chủ đãi cơm thế này là quý hóa lắm rồi!.
Vừa nói, anh chàng vừa hớt cơm trên mặt niêu bỏ vào cái đĩa không trong mâm rồi, rưới nước mắm lên bát cơm ăn ngon lành. Một loáng Nguyễn Quán Nho đã ăn hết và cất lời cám ơn ông chủ nhà. Nhưng ông chủ nhà vẫn bực vì chuyện kia, mới phân bua với khách rằng nhà mình gia giáo, không thể vì việc nhỏ liên quan đến quả trứng mà ảnh hưởng đến thanh danh gia đình. Ông cho gọi hai con gái và tất cả đầy tớ, gia nhân trong nhà đến xét hỏi nhưng không ai thừa nhận mình là thủ phạm lấy mất quả trứng.
Thấy vậy, Nguyễn Quán Nho, nói rằng:
- Nay muốn tìm người vụng trứng cũng dễ thôi. Xin ông chủ yêu cầu mọi người ngậm một ngụm nước, súc miệng sau đó nhổ ra thì rõ.
Ông chủ làm theo cách đó, quả nhiên người ăn vụng trứng không ai khác chính là cô con gái cả. Lúc đó, bất chợt ông chủ giật mình sực nghĩ, thông minh tài trí như thế chắc hẳn anh chàng này không phải là thường, ông tin rằng người khác ấy chính là quan Nghè trong giấc mộng của mình.
Ông liền cho pha trà, trò chuyện, đối đãi Nguyễn Quán Nho niềm nở hơn trước. Hỏi ra thì biết nhà nghèo nhưng chàng trai vẫn quyết tâm học tập, theo đòi bút nghiên, ông nghĩ người có chí như thế chắc chắn có ngày sẽ làm lên cơ nghiệp bằng con đường khoa cử. Sáng hôm sau, khi chia tay, ông chủ nhà hết lời động viên Nguyễn Quán Nho, lại còn mang tặng một số tiền tiêu pha dọc đường và mua thêm giấy bút; ông cũng không quên nhắc chàng khi có dịp cứ ghé vào nhà chơi, không câu nệ, ngại ngùng làm gì.
Chuyện trò với người khách lỡ độ đường (Tranh minh họa- Nguồn: violet.vn)
Bước chân ra đi, dù chỉ ở có một đêm trong căn nhà ấy nhưng Nguyễn Quán Nho thầm cảm ơn tình cảm của gia chủ, nhất là cách đối xử tử tế, nhân ái của cô con gái thứ với kẻ lỡ độ đường mà không có sự phân biệt địa vị sang hèn. Chàng trai chỉ kịp biết cô gái dịu dàng, thùy mị ấy là tên Nguyễn Thị Trắc nhưng hình ảnh của cô đã có một vị trí trong trái tim mình.
Khi thi cử, đỗ đạt đến học vị Tiến sĩ, Nguyễn Quán Nho đã kể lại câu chuyện đó và xin phép mẹ được chuẩn bị sính lễ đến hỏi cưới cô gái vùng Lỵ Nhân.
Người mẹ già mừng rỡ vì có được một cô con dâu đảm đang, thảo hiền, xinh đẹp; còn gia đình cô, nhất là người cha thì mừng vui không kém, ông không ngờ chàng nông phu ngủ trọ hôm nào lại chính là ông Nghè ngày nay, người đã đến trong giấc mộng của ông vào một đêm xưa nọ.
Vui lòng nhập nội dung bình luận.