Hầu như dân tộc vùng cao nào cũng có những người làm bùa. Từ Mường, Thái,
Tày, Nùng, Cao Lan, Dao..., mỗi một dân tộc có phương thức làm bùa khác nhau và
thường chia thành 3 đẳng cấp.
"Người tài cao chỉ cần nghe yêu cầu của người nhờ mà chế được lá bùa theo ý
muốn, thậm chí có thể đơn phương giải bùa thì được gọi là "nhà bùa". Đẳng cấp
thấp hơn là người biết làm bùa nhưng dừng lại ở việc phải xem xét kỹ lưỡng ở cả
hai phía người cần bùa và bị bỏ bùa có mặt được gọi là "sán bùa". Còn đẳng cấp
thấp nhất gồm người chỉ biết cách làm bùa mà không biết cách giải bùa thì nhiều
không kể xiết”, kỳ nhân xứ Mường, 'Thần dòi” Bùi Văn Chê (Cao Phong, Hòa Bình)
cho biết.
Thầy bùa Hoàng Tiến Đồng.
Nhà bùa "cao tay" của dân tộc Cao Lan
Ông Chê không có tài làm bùa, nhưng lại quen biết nhiều những “nhà bùa” khắp các
vùng Tây Bắc. Theo lời chỉ dẫn của ông, chúng tôi bắt xe từ Hòa Bình lên Tuyên
Quang để tìm họ. Trên xe, chúng tôi gặp một đôi vợ chồng trẻ, chồng người Bình
Định 32 tuổi, nước da ngăm đen miền biển; còn cô vợ người Hưng Yên, 19 tuổi xinh
gái và trắng trẻo ríu rít, hạnh phúc.
Xe dừng, cặp vợ chồng chưa kịp nghỉ ngơi đã bắt xe ôm đi thẳng đến một ngôi
nhà sàn ở thôn Song Lĩnh, xã Lưỡng Vượng, TP Tuyên Quang. Họ có cùng mục đích
với chúng tôi: nhà của người làm bùa có tiếng của dân tộc Cao Lan, ông Hoàng
Tiến Đồng.
Ông Hoàng Tiến Đồng không có ở nhà. Ở nhà chỉ có bà vợ Phạm Thị Cát, trạc 50
tuổi, đang ngồi chẻ lạt đan nôi. “Ông ấy không có nhà. Đi nghe hát sình (một
điệu hát truyền thống người Cao Lan) từ chập tối rồi. Để tôi đi gọi”, bà Cát
nghỉ tay nói.
Hai vợ chồng trẻ kia ngồi xuống, tay cùng mân mê chiếc nôi đan dở. Người chồng
tủm tỉm cười ngó xuống phía bụng vợ. Thoáng đỏ mặt, chị vợ phát mạnh vào lưng
chồng cái "bốp" rồi bẽn lẽn nhìn về phía chúng tôi.
Ông Đồng biết làm bùa yêu từ năm 30 tuổi và có hàng chục cuốn sách hợp duyên bằng chữ Nho do cha ông để lại.
Ông bảo, theo tiếng Cao Lan bùa yêu được gọi là “Pháp linh lợi" (một tên gọi bí ẩn mà chính ông cũng chưa hiểu nghĩa là gì.).
Chuyện ông Hoàng Tiến Đồng biết làm bùa yêu không phải là “chuyện lạ” của người Cao Lan ở Tuyên Quang, “Ông ấy không chỉ là một người làm bùa đơn thuần mà còn một nhà bùa lợi hại, nhất là làm bùa yêu.
Đôi nào mà ông ấy ra tay tác thành là êm cả. Đến nỗi mọi ngưòi còn gọi ông là “Thần tình yêu” của dân tộc Cao Lan”.
Nhà văn Nguyễn Hữu Nhàn, một người chuyên nghiên cứu văn hóa dân gian các dân tộc khẳng định.
|
Chừng hơn 10 phút sau, ông Đồng về. Ngước nhìn đôi vợ chồng trẻ đứng trên bậc
thang nhà sàn, ông Đồng reo lên: “Nguyễn Quang Quyền ở Quy Nhơn phải không?”.
Người chồng dắt tay vợ xuống tận chân cầu thang rối rít: “Dạ con Quyền đây!",
ông Đồng nhìn sang cô vợ trẻ của Quyền hiểu ngay, cười ha hả: “Cũng xinh đẹp
đấy, cưới được mấy tháng rồi?". “Dạ 6 tháng. Tất cả ơn ấy nhờ thầy cả ạ”, chàng
trai miền biển thật thà cảm tạ.
Thì ra, vợ chồng anh Quyền bắt xe đò lặn lội từ tận Bình Định ra để cảm ơn ông
Đồng đã giúp mai mối, tác thành. “Tác thành một cách kỳ lạ mà không ai dám tin.
Chính mình đi cầu thầy Đồng làm giúp mà cũng bán tín bán nghi”, anh Quyền kể.
Theo lời Quyền, hai vợ chồng anh có thành đôi lứa tất cả là nhờ lá bùa của thầy
Đồng ban cho.
Tháng 5.2011, Quyền từ vùng biển Quy Nhơn ra làm công trình ở miền Bắc, gặp cô H.
xinh đẹp ở đất nhãn lồng Hưng Yên là đem lòng yêu luôn. "Chết cái, gặp em ở đâu
là cô ấy "tránh mặt". Đem hoa tặng ngày lễ là vứt đi ngay. Càng thế, em càng yêu
và quyết lấy bằng được. Nhưng mình chân thành mà không biết làm cách nào để tỏ tình được lòng cô ấy".
May sao, có thằng bạn lên Tuyên Quang làm thợ mỏ về kể trên này có món bùa yêu
vô cùng hiệu nghiệm. Nghe nó kể cứ hoang đường thế nào, nhưng vì tình em cũng
thử. Nó đưa đến gặp thầy Đồng nhờ giúp. Thầy Đồng nghe em kể chuyện xong, thấy
em thật lòng liền ban cho một lá bùa. Dặn cứ thế, cứ thế là ổn. Đi về, em chỉ
biết nhất nhất rồi làm theo. Ai dè, sau mấy tháng, nhà em chuyển ghét thành yêu
mến, rồi bọn em cưới luôn! Tất cả là nhờ thầy Đồng cả”, anh Quyền hớn hở kể lại.
Sau khi cưới nhau, Quyền cũng kể thật lòng với vợ, nhưng vợ không tin. Thế nhưng
khi biết chuyện quả là em có bùa thì cũng tặc lưỡi: “Thôi thì duyên số, anh thật
lòng thương nên em cũng chẳng trách. Nhưng nhận ơn thì nên trả ơn". Thế là vợ
chồng Quyền lặn lội ra Bắc chuyến này.
Nói chuyện với “nhà bùa" Hoàng Tiến Đồng - một người đàn ông nhỏ bé - không ai
nghĩ ông có “pháp thuật” ghê gớm.
Tưởng chúng tôi đi xin “bùa yêu” lại toàn
những ngưòi đứng tuổi trông “rất giống những người đã có vợ con đàng hoàng”,
“nhà bùa” nói ngay: “Tôi chỉ giúp cho những cặp trai gái độc thân bén duyên nhau
chứ không bao giờ làm bùa chú cho những người bỏ vợ, bỏ chồng đâu”. Đến tận khi
nghe chúng tôi biết tiếng ông đến tìm hiểu chuyện thực hư của "bùa yêu”, ông mới
mở lời.
Mở một tủ lim có khóa sắt kiên cố, ông Đồng cầm ra một tập sách chữ Nho đã cũ ố
vàng: “Tập sách này, cha tôi (ông Hoàng Hữu Tố) đã lựa chọn tôi là người thừa
kế. Trước khi mất, cha tôi có dặn: "Làm gì cũng phải có tâm thì mới có được nhân
đức và bền lâu. Kỵ nhất là chuyện hại người, chia rẽ vợ chồng con cái người ta.
Làm bùa cho người này cũng phải xem có hại cho người kia không". Tôi nghe lời
dặn rồi theo sách. Cứ thế ngày một ngấm rồi phát triển thêm. Giờ thì cũng lĩnh
hội được gần đủ".
Trong hàng chục cuốn sách chữ Nho dùng để làm lễ, làm bùa, ông Đồng đặc biệt coi
trọng cuốn “Trung nguyên hợp hôn". Đây cũng chính là cẩm nang để làm bùa yêu của
ông. Theo lời "nhà bùa” này, cuốn sách này có thông tin về bản mệnh của tất cả
mọi người theo ngũ hành kim, mộc, thủy, hỏa, thổ.
Khi có ai đến nhờ ông làm bùa yêu thì ông phải tra xem 2 tuổi người nam, người
nữ có hợp mệnh nhau không. Nếu hợp thì ông mới làm, nếu không hợp thì ông từ
chối. Nếu hợp thì người đến xin bùa phải chuẩn bị một đôi nhẫn bạc, 2 miếng vải
đen, trắng (khoảng 2m
2/miếng) và một ít tiền.
Nhẫn bạc được đặt lên bàn thờ rồi mời vị thần Nam đường, bà Mụ, ông Tơ bà Nguyệt
xuống xe duyên cho. Bùa yêu được viết bằng chữ Nho và được hóa đi sau buổi lễ.
Người xin bùa mang chiếc nhẫn bạc về tặng cho người con gái có tình cảm cùng
đeo.
Ông Đồng cho biết thêm: “Nếu họ thành duyên được với nhau thì theo tục lệ, họ
phải trả lễ lại cho ông mối một con gà trống thiến, một cái đùi lợn, 12 cái bánh
dầy (mỗi cái nặng nửa cân có nhân đỗ xanh) và một con gà mái tơ. Tiền cảm tạ thì
ít nhiều không quan trọng, nhưng phải là con số 4: 40 nghìn đồng, 400 nghìn đồng,
4 triệu đồng...”.
Hỏi về hiệu quả của bùa yêu, ống Đồng bảo: “Cái đó cũng còn nhiều yếu tố nhưng
tôi đã làm bùa yêu là cưới. Nguyên trong thôn Song Lĩnh này, tôi đã làm duyên
cho 8 cặp và những đôi này đều sống với nhau êm ấm, hạnh phúc". Chưa gặp được
những người kia để kiểm chứng nhưng câu chuyện của đôi vợ chồng đến tạ ơn ông
cũng cho chúng tôi tin phần nào.
Bà Trần Thị Tuyết Lan, Phó chủ tịch UBND Lưỡng Vượng, TP.Tuyên Quang cũng không
thể khẳng định chuyện “nhà bùa” Đồng có những khả năng đó thật hay không. Tuy
nhiên, bà Lan nói: “Tôi có biết khả năng của ông Đồng qua nhiều người dân trong
xã. Người Cao Lan là dân tộc có nhiều nghi thức tâm linh và bùa độc đáo cần được
sự quan tâm và nghiên cứu của các nhà văn hóa”.
BĐ&CS (Theo BĐ&CS)
Vui lòng nhập nội dung bình luận.