Năm 1688, một lái buôn người Anh là
Dampier có đến Thăng Long - Kẻ Chợ, đã nhận xét rằng ở đó, người ta có
thể gặp được những người làm đủ mọi loại nghề, và ông ta đưa ra một danh
sách dài dặc những nghề thủ công truyền thống. Tuy nhiên, có một nghề
đặc biệt ở Thăng Long - Kẻ Chợ mà lúc đó ông ta quên không xếp vào bảng
mục: đó là nghề làm quan.
Thực vậy, trong chế độ nhà nước
phong kiến quan liêu của Việt Nam thời xưa, có một đẳng cấp
được đào tạo để suốt đời chuyên làm nghề cai trị dân chúng, tức nghề làm
quan. Cũng có thời gian học nghề gian khổ, tập sự công phu, có niềm
vinh và nỗi nhục nghề nghiệp.
Ở chốn kinh thành, nghề làm quan lại càng
nhộn nhịp, sôi động. Viễn cảnh “ngựa anh đi trước võng nàng theo sau” đã
trở thành mộng ước của bao chàng trai, cô gái. Một học giả phương Tây
đã có lý khi nói rằng: “ Ở Việt Nam xưa, mọi người dân ai cũng chứa đựng
một ông quan trong bụng”.
Có nhiều con đường dẫn
đến quan trường, nhưng khoa cử vẫn là phổ biến hơn cả. Thăng Long là nơi
kinh đô, có trường Đại học Quốc gia Quốc Tử giám, tập trung nhiều danh
sĩ, nhân tài, là trung tâm văn hoá của cả nước. Nho sinh từ bốn phương
đổ về sôi kinh, nấu sử, đông như trẩy hội. Anh khoá nào mạnh thế thì
chen chân được vào chức giám sinh nội trú Quốc Tử giám, được cấp học
bổng, học phẩm. Số đông ít may mắn hơn tụ tập tự học quanh khu Văn Miếu,
lập nên cả một ký túc xá sinh viên, tức Quán anh đồ, lại còn các lớp tư
thục của một số vị khoa bảng nổi tiếng, đó chính là các “lò luyện thi
thời trung đại”, như các lớp của cụ Nghè Tự Tháp, ông Đốc Mọc, ông Bảng
Lũ, ông Cử Vũ Thạch.
Ba năm đèn sách gian
lao mới đến một kỳ thi Hội, thi Đình. Hàng mấy nghìn thí sinh đua chen
trong một cuộc chạy vượt rào qua rất nhiều cửa ải, khi về đến đích chẳng
còn được là bao. Trong mỗi khoa thi ở Thăng Long nhiều thì một hai chục
ông nghè, ít thì vài ông.
Sau phút bàng hoàng
thấy tên mình được yết trên bảng vàng ở đình Quảng Văn, các vị tân khoa
được mời vào Hoàng thành, qua cửa Đoan Môn quỳ gối trước thềm điện Kính
Thiên được vua ban mũ áo, cân đai và đãi tiệc yến, rồi võng lọng vinh
quy trở về làng, người nho sinh gốc bình dân kia thực sự đã làm một cuộc
đời, chuyển dịch qua một đẳng cấp xã hội khác.
Sự thử thách đầu tiên
là làm sao vận động được các quan thầy hoặc các nhà quyền quý có thế lực
để tìm được một chỗ đứng hứa hẹn trong quan giới ở kinh đô. Ở Thăng
Long, tập trung một bộ máy quan liêu khá đông từ triều đình trung ương
đến các cấp địa phương. Quan chức lại được chia thành nhiều hạng, bậc:
có 9 phẩm, hai bậc chính tòng, hai ban văn võ, vị chi 36 chức quan cao
thấp khác nhau. Các chức quan thuộc trung ương và có liên quan đến hoàng
tộc thường được xếp ở bậc cao. Các chức quan địa phương hoặc các quan
chuyên môn ở bậc thấp hơn.
Thời Lê, chức Phủ doãn Thuận Thiên (tức Thị
trưởng Thăng Long) được xếp vào bậc ngũ phẩm, tức bậc 5/9 từ trên xuống.
Các chức quan Tu soạn sử quán (chuyên viết sử cho triều đình), Giáo thụ
Quốc Tử giám (giáo sư Đại học), Chánh ty giáo phường (người phụ trách
hoạt động múa nhạc của kinh thành) đều xếp ở hạng bát phẩm, tức 8/9, gần
cuối cùng.
Sau lo việc công đến lo
việc tư. Các vị tân khoa có nhiều triển vọng nhất trên đường hoạn lộ
thường cũng là những người có nhiều may mắn nhất trên đường tình duyên.
Các chàng trai đều thường được các nhà buôn giàu có Hàng Bạc, Hàng Đào
để ý, tìm cách mối lái, gả cho các con cháu mình là những cô gái xinh
đẹp có chút chữ nghĩa để đọc các truyện nôm về tình yêu trai gái, đồng
thời cũng rất thạo buôn bán trên các tráp tiền đồng bạc nén hoặc các sạp
hàng tơ lụa. Đây không chỉ là cuộc hôn phối giữa đôi trai tài gái sắc,
đó còn là cuộc hôn phối kinh tế, chính trị giữa hai tầng lớp xã hội có
quyền và có tiền, bổ sung cho nhau thành một gia đình viên mãn.
Cuộc sống giới quan
liêu thời phong kiến ở Thăng Long xưa tiêu biểu cho đẳng cấp thượng lưu quý
phái có đặc quyền. Họ được xã hội trọng vọng, được miễn trừ sưu thuế,
tạp dịch, được chuộc tội bằng tiền, được nhà nước cấp bổng lộc, đất ở,
ruộng cày, có tiêu chuẩn độc quyền xây nhà cao, cửa rộng, dùng đồ sơn
son thiếp vàng, mặc đồ sa tầu, đoạn tầu, đi giày hài. Ra đường có phu
khiêng võng, che lọng, lính hầu, dân phố phuờng thường phải rạp mình quỳ
lạy mỗi khi có bậc quan lớn đi qua.
Tới công đường hoặc vào
triều ban, các quan đều có phẩm phục quy định riêng cho từng cấp bậc.
A. de Rhodes khi đến Thăng Long vào thế kỷ XVII, nhận xét là các quan
văn mặc áo màu đen, các bậc đại thần mặc áo ngả màu tía. Trên ngực và
lưng áo của quan văn thường thêu các loài chim như công, hạc, yểng, cò;
quan võ thêu các loài thú như sư tử, hổ, hùm, beo.
Nhà vua là người duy
nhất được mặc áo hoàng bào màu vàng, thêu rồng. Tất cả các đồ đạc trang
phục của giới quan liêu đều được nhà nước ban cấp, do các công tượng ở
cục Bách tác làm ra hoặc được thửa tại các cửa hiệu trong phố phường.
Hàng Đào bán tơ lụa, nhuộm điều, Hàng Bạc làm đồ trang sức vàng bạc,
phường Cổ Vũ sơn thiếp, Tả Khánh tiện gỗ, Hàng Khay chạm khảm, Hài Tượng
làm giày hài...
Công việc và hưởng thụ
của giới quan liêu thời phong kiến cũng rất khác nhau. Ngạch quan
bận rộn nhiều bổng lộc là các ngạch quan có liên quan đến các mặt xét xử
kiện tụng, trưng thu thuế má, tiếp xúc nhiều với dân chúng. Sử cũ gọi
đó là hạng “phì quan” (quan béo). Còn các loại quan thuộc ngạch giáo
dục, văn hoá và các vị tản quan (có hàm mà không có thực chức) công việc
và bổng lộc đều ít. Phạm Đình Hổ gọi đó là các vị quan “nhàn rỗi không
đủ tiêu”. Trong khi một số quan có quyền thế thường sai gia nhân ra chợ
mua hiếp của dân, sai tay chân đi cướp bóc những chậu cây cảnh hiếm quý
của các nhà giàu, thì một số đông khác đời sống hàng ngày vẫn rất thanh
bạch.
Nghề làm quan ở kinh đô
Thăng Long có khi đưa con người ta đến chốn tột đỉnh giàu sang, nhưng
cũng phải trả giá bằng nhiều nỗi nhọc nhằn.
Hàng ngày, từ trong nhà
ra ngoài phố, ở công đường, nơi triều chính, tiếp xúc với đủ mọi loại
hạng người, người làm quan phải luôn luôn lao tâm khổ tứ, chọn lựa thái
độ ứng xử sao cho phải lễ, phải đạo, hợp luật, hợp lệ. Nơi Kinh kỳ đô
hội “quan trên trông xuống người ta trông vào”, lại càng phải cẩn trọng,
khỏi bị sai phạm trong các kỳ đàn hạch, khảo khoá, nơm nớp mong được
thăng quan, những lo bị giáng chức.
Trước hết là đối với
ngôi vua tối thượng. Làm tôi phải trung với vua, người làm quan đã được
vỡ lòng lời dạy đó ngay từ thời để chỏm, tâm niệm nó suốt cuộc đời chính
sự. Nhưng có vua sáng vua tối, thời thịnh, thời suy, phân biệt được
điều đó đâu phải dễ dàng?. Ở đây, người quan liêu vừa là một người “tôi
tớ” (hạ thần) của nhà vua, vừa là người có trách nhiệm đối với quốc gia,
cái khó là kết hợp trọn vẹn được đạo vua tôi nghiêm nghặt với lòng
cương trực dám nói thẳng.
Một số không ít các vị quan nơi kinh kỳ đã nêu
được gương sáng về tiết tháo. Chúng ta đều biết chuyện Tô Hiến Thành
rất công minh trong việc chọn lựa người tài, về Chu Văn An dũng cảm dâng
sớ “Thất trảm” đòi chém bảy tên nịnh thần được nhà vua sủng ái, nhưng
mấy ai đã làm được như các ông?.
Thời Trần, quan ngự y
Phạm Công Bân dám hoãn lại việc khám bệnh cho một quý phi của nhà vua bị
cảm mạo để đi cấp cứu cho một phụ nữ thường dân bị băng huyết làm cho
nhà vua lúc đầu nổi giận nhưng sau đã chuyển sang cảm phục. Thời Lê, khi
vua Lê Thánh Tông muốn xem những điều trong nhật sử ghi chép về mình,
sử quan Lê Nghĩa đã khẳng khái tâu: “Nhà vua cứ nên cố sức làm điều lành
là đủ rồi, hà tất phải xem quốc sử?” có ý muốn giữ cho ngòi bút của
mình được trong sạch khỏi bị uốn cong. Đấy là trường hợp những tôi trong
vua sáng. Nhưng trong lịch sử, cũng không hiếm trường hợp chỉ vì muốn
nói thẳng căn ngăn vua mà người làm quan đã bị trừng phạt, cách chức,
thậm chí nguy hiểm đến tính mạng. Cái giá của sự thật đâu phải là rẻ
rúng!.
Mối quan hệ với các
đồng liêu trong giới quan trường cũng hết sức phức tạp. Chín phẩm, 36
cấp bậc văn võ, dưới trên phân biệt, quả thật là cả một bậc thang đẳng
cấp trong một đẳng cấp. Trăm điều nghi lễ, nghìn điều xét nét, đó là
chưa kể những lời đố kỵ dèm pha, nhất là của các bọn hoạn quan dốt nát,
xảo quyệt chuyên nghề hại bạn nịnh vua.
Thời Trần, Đoàn Nhữ Hài
thấy bạn đồng sự pha trò vô ý thức trong triều, không nghe đứng dậy bỏ
đi, nhưng vẫn bị hặc tâu xử phạt là cố tình tránh né. Nguyễn Trung Ngạn
có thời làm Kinh sư đại doãn (Thị trưởng Thăng Long) trước đó đã bị
giáng chức chỉ vì sơ suất xếp nhầm một chức quan có tiêu chuẩn mặc áo
đen (Tạo y) sang tiêu chuẩn mặc áo tía (Tử y), bởi lẽ quan dưới tiếm
dụng tiêu chuẩn sinh hoạt của quan trên là phạm thượng.
Tổng trấn Bắc
Thành đầu tiên triều Gia Long là Nguyễn Văn Thành, bị đồng liêu là Lê
Văn Duyệt thù ghét, đã nhân chuyện con trai Thành làm một bài thơ ngông,
tố cáo lên vua vu Thành âm mưu phản loạn, buộc vị khai quốc công thần
kia phải kết liễu cuộc đời trong chén thuốc độc. Người quan liêu ở đây
luôn luôn phải sống trong một mặc cảm tự ty và trong niềm hoang tưởng bị
người khác theo dõi. Vị quan có nhiều duyên nợ với Thăng Long là thi
hào Nguyễn Du, những khi ở chốn triều đường thường rất ít sử dụng cái
lưỡi của mình trong lời ăn tiếng nói, phải chăng chính vì ông luôn sợ
hãi những cái lưỡi khác của bạn đồng liêu?.
Một quan hệ thường trực
hàng ngày của giới quan liêu trấn trị ở Thăng Long thời ấy là việc
tiếp xúc với dân chúng phố phường: thu thế, nhận đơn kêu xin, xử kiện.
Chính ở mặt quan hệ này đã nảy sinh ra những tật bệnh kinh niên phổ biến
ở giới quan liêu: tệ lộng quyền và nạn tham nhũng.
Trong cơ chế một xã hội
đẳng cấp tôn ti, chính cái mặc cảm tự ty nơi cung đình lại rất dễ biến
thành mặc cảm tự tôn nơi công đường. Trong đầu óc người làm quan đã ngấm
sâu quan điểm Khổng giáo “hạng quân tử thì trị người còn hạng tiểu nhân
thì bị người trị”. Dân chúng ở đây chỉ là những thần dân lệ thuộc có
bổn phận chăm chỉ làm ăn và biết vâng lời, chứ làm sao lại được phép coi
là những công dân tự do, những chủ thể chính trị của thành phố? (Trong
khi đó, ở các thành thị tự trị trung đại Tây Âu, thị dân cũng chính là
người công dân. Trong tiếng Anh, từ citizen vừa có nghĩa là thị dân, vừa
có nghĩa là công dân. Phương ngôn Đức đương thời có câu: “Hít thở không
khí đô thị, làm cho con người ta trở thành tự do”).
Xã hội Việt Nam cũ là
một xã hội lễ trị, nhân trị, không phải pháp trị. Quan liêu tập trung
quá nhiều quyền hành, vừa là người thi hành luật pháp, lại cũng vừa là
người xét xử luật pháp, cai trị dân đồng nghĩa với ban ơn đức cho dân,
thì dù cho một ngày có đến hai lần tu niệm, làm sao tránh khỏi tệ lộng
quyền?. Các tác giả phương Tây cho rằng giới quan liêu Việt Nam xưa đều
mắc phải chứng kiêu ngạo vĩ cuồng, chính là vì thế.
Lộng quyền là cha đẻ
của tham nhũng. Ở xã hội giai cấp phương Tây, tiền sinh ra quyền, quyền
sinh ra chức. Ở xã hội đẳng cấp phương Đông thì ngược lại, chức sinh ra
quyền, quyền sinh ra tiền, quyền gắn liền với lợi. Có một thực tế khó
chối cãi là ở Thăng Long - Hà Nội thời trung đại, nhất là thế kỷ XVII,
XVIII, XIX, lúc mà nền kinh tế hàng hoá tiền tệ phát triển và lễ giáo
phong kiến suy đồi, tệ nạn tham nhũng đã trở thành phổ biến.
Triều đình
từng cảnh cáo, ngăn cấm, trừng phạt, nhưng đâu vẫn hoàn đấy. Nhà vua Tự
Đức than thở: “Quan vui thì dân khổ. Họ thường mượn việc để yêu cầu hà
khắc, cố ý buộc tội mở tội cho người để đòi tiền đút lót, nhân việc thu
lương tiền mà lạm dụng chia nhau, đưa quà cáp xin xỏ để làm cái thang
bước lên quan trường. Tình tệ ấy kể sao cho xiết”.
Tuy nhiên, những gương
sáng về đức thanh liêm của giới quan liêu Thăng Long - Hà Nội xưa cũng không
phải là quá hiếm. Hành khiển Mạc Đĩnh Chi nổi tiếng liêm khiết về câu
chuyện không nhận 10 quan tiền vô chủ ban đem đặt trước cửa nhà mình.
Quan kiểm pháp Trần Thì Kiến vì chót ăn cỗ biếu của người có tình ý hối
lộ, đã móc họng nhổ ra hết thức ăn ra, giữ lòng trong sạch. Tổng đốc Hà
Nội Nguyễn Tri Phương là thông gia của hoàng tộc, đã từng nhiều lần đi
công tác nước ngoài. Ở Malina và Singapo mà tư thất vẫn chỉ là một ngôi
nhà tranh đơn sơ. Nhưng mặt khác bất kì đi đâu, ông cũng sai quân hầu
mang theo lọng che, vì theo quan niệm của người đương thời, lọng là biểu
tượng của uy quyền và trách nhiệm của người làm quan, không đơn thuần
là vật dùng để che mưa nắng.
Dã sử kể rằng chính chiếu lọng mà oan trái
đó che trên đầu ông khi ông đứng trên cửa thành chỉ huy đánh giặc ở Hà
Nội năm 1873 đã trở thành mục tiêu cho quân Pháp tập trung bắn ông bị tử
thương. Còn phải kể đến những viên quan suốt đời tận tuỵ phục vụ lợi
ích của dân chúng nơi quê mình như Phùng Khắc Khoan, Nguyễn Quý Đức, đã
để lại trong lòng mọi người niềm cảm phục.
Có chức quyền mà không
lộng quyền, quyền đó có khả năng biến thành tiền mà vẫn không màng tiền
bạc, làm cha mẹ dân (dân chi phụ mẫu), nhưng vẫn là đầy tớ của dân (dân
chi công bộc), những đức tính đó của một số người làm quan ở Thăng Long -
Hà Nội đã làm rạng rỡ cho vẻ đẹp của những người chốn kinh kỳ, xứng
đáng là tinh hoa của đất ngàn năm văn vật.
Căng thẳng ở triều
đình, chốn đồng liêu, nơi công đường, người làm quan khi về đến nhà vẫn
gánh chịu một sức ép tâm lý gia đình, nhiều khi còn mãnh liệt hơn mọi
sức ép xã hội. Về nguyên tắc, nghề làm quan là một nghề cai trị thanh
tao, hết lòng vì dân, vui với sách vở đạo lý thánh hiền, xa lạ với các
hoạt động buôn bán kinh doanh lời lãi. Nhà sử học Nhật Tsuboi gọi đó là
“một thái độ ứng xử phản trọng thương” (un comportement anti
mercantiliste) khi nói về giới quan liêu Việt Nam xưa.
Nhưng liền ngay
sau đó, Tsuboi lại phân tích: “Điều đó không có nghĩa là họ ghét bỏ tiền
bạc, ngược lại là khác. Rất nhiều ông quan đã lợi dụng địa vị của mình
để thu góp của cải cho gia đình. Hành động đó được xã hội chấp nhận coi
như hệ quả của chức vụ, có điều chức vụ ấy phải được củng cố về mặt
quyền thế trước khi kiếm ra tiền bạc”.
Ở chốn kinh kỳ đô hội
có rất nhiều điều cám dỗ, nhiều cơ hội để tiêu xài, nhiều của ngon vật
lạ để thưởng thức, đồ đạc quý giá để sắm sửa. Theo Phạm Đình Hổ lúc này
“con em các nhà quyền quý ở Thăng Long đua nhau chuộng xa xỉ, có khi mua
một bộ ấm chén tốn đến vài mươi lạng bạc, thậm chí gửi tàu buôn (ra
nước ngoài) đặt cho được kiểu ấm chén mới lạ, cách hiếu thượng đến thế
là cùng cực. Rồi các nhà tang gia hay đua nhau mượn phường chèo đóng
tuồng để khoe khoang, các trò bài bạc, chọi gà sinh ra nhan nhản”. Vua
Tự Đức than thở: “Hà Nội xưa nay phong tục vẫn là kiêu bạc, xa xỉ, phóng
đãng”.
Thế là trong gia đình,
trước hết là các quan bà, mà một số xuất thân từ nguồn gốc thị dân buôn
bán, sau đến các cô chiêu, cậu ấm đã tăng cuờng gây sức ép đến vị quan
gia trưởng đáng kính phải làm sao kiếm đuợc nhiều tiền để cung phụng,
cho họ khỏi thua chị kém em, xấu hổ với các gia đình quyền quý khác.
Khốn nỗi, nếu không tham ô hối lộ, chỉ sống nhờ số lương bổng khiêm tốn,
thì lấy đâu ra vàng thoi, bạc nén, nhất là đối với hoàn cảnh các vị
“việc quan nhàn rỗi không đủ tiêu”.
Có lần Tổng trấn Nguyễn Văn Thành
dâng sớ lên Gia Long xin “tăng lương cho quan lại để dưỡng liêm”, nhưng
không được chấp nhận. Vì vậy, các quan bà phải xoay ra tự cứu, kiếm cách
đi buôn làm giàu. Trong chuyến đến Kẻ Chợ năm 1688, du khách người
Trung Quốc Phan Đỉnh Khuê xác nhận: “Ngay cả đến phu nhân các bậc đại
thần cũng không e ngại gì khi hoạt động buôn bán”. Rồi dần dần, đến lượt
các quan ông ra tay tiếp sức.
Lái buôn Dampier nhận xét: “Các quan rất
dễ đang trở thành con buôn, khi có thể có được món lợi nào. Các quan mua
những thứ gì lớn lao và đắt tiền, còn những thứ gì giá trị kém hơn đã
có phụ nữ thân tín giúp”.Đại Nam thực lụccó ghi lại chuyện một học giả
nổi tiếng đáng kính đời Nguyễn qua hai lần đi sứ nhà Thanh về, đã bị
triều đình khiển trách vì mang theo quá nhiều kiện hàng quý giá ngoài
tiêu chuẩn. Ở đây, lỗi tại đức tu thân của các bậc quân tử dòn mỏng, tại
sự cám dỗ của nền kinh tế hàng hoá tiền tệ thị trường hay chính ở đường
lối chính sách ức thương của triều đình hẹp hòi, bảo thủ?.
Dằn vặt cuối cùng và
cũng là lớn nhất của những người làm quan còn giữ được thiên lương ở
Thăng Long - Hà Nội xưa, là xác định thái độ ứng xử đối với bản thân.
Các quan ở mọi cấp bậc, một mặt vừa là bầy tôi tớ của nhà vua và triều
đình, là người chăn dắt dân chúng, người rao giảng đạo thánh hiền, mặt
khác lại là người nho sĩ trí thức hiểu biết có lý tưởng, một số là các
tài tử văn nhân đa tình, tóm lại, họ cũng là những con người với đầy đủ
những khát vọng vừa thánh thiện vừa trần tục. Đó chính là những nhân
cách lưỡng phân, hai con người cùng tồn tại trong một con người. Vậy
sống ra sao đây?.
Trong những thời thịnh trị, lúc thuận buồm xuôi gió
thì không nói làm gì, còn ở những buổi nhiễu nhương, với đầy trăn trở
mâu thuẫn, họ phải chọn lựa một thái độ. “Khắc kỷ phục lễ” (uốn mình
theo lễ), tự thủ tiêu nhân cách, thuận theo thói tục; hay lựa chiều chèo
chống, xuất xử quyền biến, chọn cách ứng xử trung dung “hoà nhi bất
đồng”, “biệt nhi vô dị”. Giữ trọn tiết tháo, rũ bỏ danh lợi phồn hoa,
treo ấn từ quan lui về ẩn nơi thôn dã, bạn với ngư tiều, hay cứ ở lại ẩn
giữa chốn thành thị, tìm niềm an ủi, tìm thế cân bằng trong hành lạc
tiêu dao hoặc trong thế giới tâm linh Phật, Lão?. Ở đây không có lời
giải đáp nào là khuôn mẫu.
Trên đời này, cái gì
rồi cũng phải trả giá. Lịch sử cũng có những cơn nóng giận, nhưng với
thời gian, bao giờ cũng là những quan toà công minh. Đẳng cấp quan liêu
của Thăng Long - Hà Nội xưa đã từng một thời vang bóng, trước đây được
coi là tầng lớp ưu tú trong xã hội, rường cột của quốc gia, niềm vinh
hạnh cho con cháu, thì sau đó có thể nào mà lại trở thành một giai cấp
phong kiến ăn bám, thống trị bóc lột nhân dân, những tên tội phạm đáng
nguyền rủa, là vết nhơ cần phải tẩy xoá hoặc dấu kín đi trong các bản lý
lịch công dân.
Tuy nhiên, những người
đã khuất của thời dĩ vãng đã qua thường là khó tự bào chữa. Mặc nhiên
xoá án cho họ cũng như gia tăng tội trạng cho họ đều là những việc dễ
làm, nhưng có lẽ thiếu công bằng và ít bổ ích hơn là bình tĩnh gắng hiểu
được con người họ, tâm tư và hoàn cảnh xô đẩy của họ, rút ra những bài
học lầm lỗi của lịch sử, giúp cho con người cảnh giác, để sao những điều
không nên có của ngày hôm qua sẽ mãi mãi không bao giờ trở lại trong
những ngày mai tới.
(Bài in trên Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số 1/1992, tr.12-15. Tác giả: PGS.TS Nguyễn Thừa Hỷ)