Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận
Khi nhấn đăng nhập đồng nghĩa với việc bạn đã đồng ý với điều khoản sử dụng của báo Dân Việt
Đăng nhập
Họ và tên
Mật khẩu
Mã xác nhận
Đăng ký
Xin chào, !
Bạn đã đăng nhập với email:
Đăng xuất
Từng là Kinh đô của triều đại nhà Nguyễn, Huế được xem là thành phố có bề dày lịch sử, văn hóa lâu đời nhất ở nước ta. Mời độc giả cùng Dân Việt chiêm ngưỡng vẻ đẹp xứ Huế nhìn từ camera bay, đặc biệt khi địa phương này vừa được Quốc hội đã thông qua nghị quyết về việc thành lập thành phố Huế trực thuộc trung ương.
Ngày nay, Thừa Thiên Huế được biết đến là thành phố Festival của Việt Nam. Festival Huế lần đầu được tổ chức vào năm 2000, với sự thành công ngoài mong đợi, Thành phố Huế đã quyết định 2 năm sẽ tổ chức một lần. Huế ngoài nổi tiếng với núi Ngự hùng vĩ soi bóng bên dòng sông Hương thơ mộng nên thơ và các di tích cổ xưa của các triều đại vua chúa thì Huế còn được biết đến với nhiều bãi biển đẹp cho những ai thích du lịch.
Vừa qua, vào ngày 30/11, Quốc hội đã thông qua nghị quyết về việc thành lập thành phố Huế trực thuộc trung ương với 458/461 đại biểu tham gia (chiếm 95,62% đại biểu tham gia).
Theo nghị quyết, thành phố Huế là thành phố trực thuộc trung ương trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên là hơn 4.900 km2 và quy mô dân số là khoảng 1,2 triệu người của tỉnh Thừa Thiên Huế.
Thành phố Huế giáp thành phố Đà Nẵng, tỉnh Quảng Nam, tỉnh Quảng Trị; nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào và Biển Đông.
Tạo hóa đã ban tặng cho Thừa Thiên Huế một địa hình khá độc đáo. Nhìn từ trên cao, toàn tỉnh như một công viên lớn, phong phú, đa dạng. Nơi đây hội tụ núi đồi và đồng bằng, là nơi gặp nhau của nhiều con sông, đầm phá và biển.
Khu di tích này là công trình có quy mô đồ sộ nhất lịch sử Việt Nam với thời gian xây dựng kéo dài trong nhiều năm với hàng vạn người thi công cùng các hoạt động lấp sông, đào hào, đắp thành, bên cạnh đó là khối lượng đất đá khổng lồ lên tới hàng triệu mét khối.
Kỳ đài Huế là công trình thuộc quần thể kiến trúc cố đô Huế, nằm ở phía trong mặt tiền kinh thành, trước Ngọ Môn, theo hướng Nam, ở khoảng giữa hai cửa Ngăn và cửa Quảng Đức, trên pháo đài Nam Chánh. Cùng với những thăng trầm của Kinh thành Huế, Kỳ đài là nơi chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử quan trọng của đất nước. Thời Nguyễn, trong tất cả các dịp lễ tiết, chầu mừng, tuần du cho đến việc cấp báo đều có hiệu cờ. Trên đỉnh cột cờ còn có một trạm quan sát gọi là Vọng Đẩu.
Lăng Tự Đức là một quần thể công trình kiến trúc tọa lạc trong một thung lũng hẹp thuộc làng Dương Xuân Thượng, tổng Cư Chánh (cũ), nay là thôn Thượng Ba, phường Thủy Xuân, thành phố Huế. Lăng Tự Đức như một bức tranh sơn thủy tuyệt mỹ, được liệt vào một trong những công trình đẹp nhất thế kỷ XIX.
Lầu Tàng Thơ là một trong những thư viện lớn của triều Nguyễn được xây dựng vào mùa hè năm 1825, dưới thời vua Minh Mạng (1820 - 1840), là kho lưu trữ nhằm mục đích xử lý các thông tin liên quan đến việc điều hành quốc sự và lưu trữ tư liệu cho việc viết sử sách. Lầu nằm trên một hòn đảo hình chữ nhật (diện tích khoảng 30m x 50m), ở giữa hồ Học Hải (hồ hình vuông, vốn là một đoạn trong dòng chảy cũ của sông Kim Long, được nắn lại dưới thời vua Gia Long, phần đảo nổi giữa hồ được sử dụng làm kho thuốc súng và diêm tiêu). Hòn đảo này nối với đất liền bằng một cây cầu xây bằng gạch và đá ở bờ hồ phía tây, bốn mặt xây tường gạch thấp.
Lúc mới thành lập, trường chỉ là những dãy nhà tranh vốn là trại lính thủy quân được cải tạo lại. Tường rào phía trước mặt trường được xây bằng gạch đỏ sậm. Năm 1915, trường Quốc Học được xây dựng lại, những dãy nhà tranh được phá bỏ thay thế vào đó là hai dãy nhà lầu xây gạch, lợp ngói kiên cố theo kiểu Tây Âu, về cơ bản kiến trúc đó được duy trì đến ngày nay.Hơn 120 năm thành lập, trường Quốc Học là ngôi trường nổi tiếng nhất của Huế khi nhiều nhà lãnh đạo từng theo học như Chủ tịch Hồ Chí Minh, Tổng bí thư Trần Phú, Đại tướng Võ Nguyên Giáp.
Cầu Trường Tiền là một trong những cây cầu đầu tiên được xây dựng ở Đông Dương vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX theo kỹ thuật và vật liệu mới của phương Tây với kết cấu thép. Trước đó những cây cầu được xây dựng đều là công trình ngắn, bằng vật liệu tre, gỗ… không bền vững. Người dân xứ Huế quen với câu ca “Cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp…”, nhưng chính xác cây cầu có 6 nhịp và 12 cài kết với nhau thành 6 cặp. Cầu có chiều dài khoảng 400 m tính từ hai mố, nếu tính cả đường dẫn thì độ dài của Trường Tiền khoảng 453 m, lòng cầu rộng 6 m.
Chùa Thiên Mụ, còn được gọi là chùa Linh Mụ, được chúa Nguyễn Hoàng cho xây dựng vào năm 1601. Chùa nằm bên bờ Bắc sông Hương thuộc địa phận xã Hương Long, cách trung tâm thành phố Huế 5km. Theo dấu thời gian, chùa Thiên Mụ đã trải qua bao lần trùng tu. Trong đó, nổi bật nhất là cuộc trùng tu năm 1710, dưới triều đại của chúa Nguyễn Phúc Chu. Ông cho đúc Đại hồng chung nặng hơn 2 tấn, là chiếc chuông lớn thứ nhì ở Việt Nam (chỉ sau chuông Cổ Lễ ở tỉnh Hà Nam). Chuông được coi là bảo vật của chùa và đã đi vào ca dao như một nét đẹp của xứ Huế êm đềm và sâu lắng.
Nhà thờ Phủ Cam là một công trình giàu tính biểu đạt, mặt đứng như một cuốn kinh thánh mở rộng, mặt bằng xây dựng mang dạng một Thánh giá: đầu Thánh giá hướng về phía nam, chân Thánh giá hướng về phía bắc và ở gần đầu hơn, hai bên vươn ra hai cánh Thánh giá. Tổng thể các đường nét, nhà thờ như hình tượng một con rồng vươn thẳng lên trời, vừa mạnh mẽ vừa thanh thoát nhẹ nhàng, mang đầy tính nghệ thuật và tôn giáo.
Phố cổ Bao Vinh (Huế) vốn từng là một khu phố trong cảng thị Thanh Hà - Bao Vinh, được hình thành từ đầu thế kỷ 17. Ngày nay, tuy đã bị phai mờ theo thời gian nhưng hình hài phố cổ này vẫn giữ được nguyên vẹn bởi những nét xưa cũ. Những ngôi nhà bé nằm nép mình bên những ngôi nhà cao tầng tạo nên cảnh sắc độc đáo không giống bất cứ nơi nào.
Cách TP Huế chưa tới 10 km, làng Thanh Tiên vốn nổi tiếng với nghề làm hoa giấy có truyền thống hơn 300 năm tuổi. Làng cũng nằm trong danh mục các nghề thủ công từ thế kỷ 16-19 của Đại Nam nhất thống chí. Cứ đến gần Tết là nhà nhà trong làng lại tập trung làm hoa. Theo những nghệ nhân trong làng, dịp gần Tết như thế này thì làng hoa sẽ tất bật và hối hả hơn.
Nơi này cũng là 1 trong 12 đầm phá biểu tượng cho khu vực miền Trung của Việt Nam. Vị trí của đầm cũng rất đặc biết khi nằm ở khối núi Hải Vân – Bạch Mã, ngay ranh giới hai miền khí hậu Bắc và Nam. Vì thế nhiệt độ của đầm dao động trong khoảng từ 18–31 °C. Cũng sẽ khá mát mẻ vào buổi sáng tinh mờ hoặc tờ mờ tối – Những khoảng thời gian lý tưởng để tham quan Đầm Lăng Cô.
Vui lòng nhập nội dung bình luận.