Sau chiến dịch Điện Biên Phủ, đại tướng Võ Nguyên Giáp lại chỉ huy bộ đội 2 miền Nam - Bắc đánh thắng cuộc chiến tranh đặc biệt, chiến tranh cục bộ và "Việt Nam hóa chiến tranh" của đế quốc Mỹ xâm lược. Năm 1984, Đại tướng Võ Nguyên Giáp - người học trò xuất sắc của Bác Hồ, người Anh Cả của Quân đội Nhân dân Việt Nam, Anh hùng được thế giới vinh danh bầu chọn là 1 trong 10 danh tướng tài ba, thao lược của thời đại. Nói về Đại tướng Võ Nguyên Giáp, các nhân vật quan trọng trong giới quân sự, từ tướng Henri Navarre, De Castries (Pháp) đến McNamara, William Westmoreland (Mỹ) chưa có ai nói và viết những lời xúc phạm hoặc hạ thấp vai trò của Đại Tướng, trái lại phần lớn trong số ấy đều thán phục ca ngợi ông thật lòng.
Là tướng quân đội Pháp từng tham gia chiến đấu trong Chiến tranh thế giới I, Chiến tranh thế giới II và là Tổng chỉ huy quân đội Pháp tại chiến trường Điện Biên Phủ, Henri Eugène Navarre tự tin nhận định rằng quân đội Việt Nam sẽ không thể vận chuyển các vũ khí hạng nặng vào chiến đấu với quân đội Pháp. Nhưng ông ta không ngờ, quân đội giải phóng nhân dân Việt Nam đã dùng sức người để kéo pháo 150 mm và pháo cao xạ 37 mm qua nhiều đèo cao suối sâu để tiến vào trận địa. Các chiến sĩ Việt Nam cũng dùng sức người để đào chiến hào, tạo thành “chiếc thòng lọng siết cổ” quân đội Pháp ở Điện Biên Phủ. Khi nhận ra mình đang bị mắc kẹt, vị Đại tướng Tổng tư lệnh cuối cùng của quân đội Pháp ở Đông Dương năm 1953-1954 nói:
"Khi biết Tướng Giáp hoãn cuộc tiến công Điện Biên Phủ (1/1954), tôi đã nhận thấy ngay đó là một nước cờ sáng suốt, hiểm độc và đáng sợ nhất của Tướng Giáp". Từ niềm tin chiến thắng Navarre trở nên hoang mang và rất mong Tướng Giáp bỏ ý định giao chiến. Từ đó ông ta lúc tin, lúc lo, lo nhiều hơn sau khi tướng Ê ly đi thị sát chiến trường Điện Biên Phủ về hỏi: "Ông có mong giao chiến với Tướng Giáp ở Điện Biên không?" Navarre trả lời: "Không, tôi không bao giờ mong cả".
Tướng De Castries là chỉ huy trưởng tập đoàn cứ điểm kiêm chỉ huy cao nhất của quân Pháp trong trận đánh Điện Biên Phủ. Việc Tướng De Castries bị bắt sống ngay tại căn hầm của mình ngày 7/5/1954 đã đánh dấu sự thảm bại của quân Pháp trong cuộc chiến.
Nhắc tới chiến bại Điện Biên Phủ, Tướng De Castries đã bày tỏ sự thán phục tài cầm quân của Đại tướng Võ Nguyên Giáp: "Tướng Giáp là một người thông minh, dũng cảm, một người giỏi chỉ huy du kích. Ông ấy cũng giỏi về chính trị, về chủ nghĩa cộng sản. Chúng tôi đã thấy rõ điều đó. Nay qua trận Điện Biên Phủ, tôi thấy Tướng Giáp không những giỏi về chỉ huy đánh du kích, mà còn giỏi cả về chỉ huy trận địa chiến, chỉ huy tác chiến hiệp đồng binh chủng và cả về nghi binh đánh lừa tình báo đối phương”. Nói thêm về tài điều quân linh hoạt và sáng suốt của Tướng Giáp trong trận đánh Điện Biên Phủ, Tướng De Castries phải thốt lên rằng: “Điều làm tôi hết sức ngạc nhiên là không biết Tướng Võ Nguyên Giáp đã tốt nghiệp từ những trường, học viện võ bị cao cấp nào”.
Trong chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954, ngay sát giờ nổ súng, Tướng Giáp đã hạ lệnh rút hết quân đội, pháo binh ra khỏi vị trí, lùi thời điểm tiến đánh, chuyển từ “đánh nhanh thắng nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc”. Đây chính là yếu tố buộc quân đội Pháp tại Điện Biên Phủ phải đầu hàng vào tháng 5/1954 sau 2 tháng chịu trận. Dù triển khai tới 16.000 binh sĩ nhưng quân đội Pháp vẫn không thể chống đỡ trước các cuộc tấn công dồn dập của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Thậm chí, sau nhiều năm chiến đấu tại Việt Nam và nhận được sự hỗ trợ mạnh mẽ từ phía Mỹ, quân đội Pháp vẫn không thể tiếp tục ứng chiến sau thất bại Điện Biên Phủ.
“Ông chỉ huy những chiến dịch tưởng chừng không thể thắng, đưa ra những quyết định mà có lẽ không một vị tướng nào dám thực hiện. Đặc biệt, Tướng Giáp rất giỏi khi tổ chức, bố trí những trận đánh du kích lấy ít địch nhiều”, Tướng De Castries nhận định.
Khi xét tới sự tương quan lực lượng và khí tài giữa quân đội Nhân dân Việt Nam và quân đội Pháp, Tướng De Castries khẳng định: “Quân đội viễn chinh Pháp và các tướng tá Pháp chúng tôi là một đội quân nhà nghề, thiện chiến và trang bị hiện đại. Sự kiện Tướng Giáp thắng chúng tôi ở Điện Biên Phủ làm chúng tôi ngạc nhiên về tài năng của ông ấy. Chúng tôi biết Đại tướng Võ Nguyên Giáp là một trí thức và là một giáo sư đã từng dạy học ở Hà Nội. Nhưng không phải nguồn kiến thức nào cũng biến thành tri thức quân sự, không phải người trí thức nào cũng biến thành vị tướng giỏi đâu".
Cuộc bao vây kéo dài trong suốt ba tháng từ ngày 13/3 tới 7/5/1954. Kết quả, quân đội Pháp cùng với bộ chỉ huy tiền phương tại Điện Biên Phủ do Đại tá De Castries cầm đầu, đã phải đầu hàng vô điều kiện. Tướng De Castries đã phải thốt lên rất thành thực rằng: "Tôi thừa nhận Tướng Giáp rất sành sỏi binh nghiệp và khôn ngoan hơn, tài giỏi hơn tôi đã đành, mà còn hơn cả tướng Cogny và tướng Navarre. Tôi hân hạnh được làm đối thủ của Tướng Giáp, được làm kẻ chiến bại trực tiếp của một người tài giỏi như Tướng Giáp. Tôi ngưỡng mộ và kính phục ông”.
Cho đến lúc qua đời, vị đại tướng 4 sao của quân đội Mỹ William Westmoreland vẫn không tin rằng mình từng thất bại tại chiến trường Việt Nam, nơi ông đã chỉ huy một lực lượng binh lính đông đảo nhất trong suốt cuộc chiến tranh ở Đông Dương. Tuy đã thất bại nhưng ông không thể phủ nhận sức mạnh của Quân Giải phóng Miền nam Việt Nam, đặc biệt ông rất tôn trọng đối thủ của mình - Đại tướng Võ Nguyên Giáp, lúc bấy giờ là Bộ trưởng Quốc phòng và là Tổng tư lệnh Quân đội Việt Nam. Ông từng nói: “Những phẩm chất làm nên một nhà lãnh đạo quân sự vĩ đại là khả năng đưa ra quyết định, sức mạnh tinh thần, khả năng tập trung và một trí tuệ hội tụ được những phẩm chất này. Tướng Giáp đã sở hữu tất cả”.
Là con trai liệt sỹ Võ Quang Nghiêm, học trò xuất sắc của Hồ Chủ Tịch, người anh cả của QĐND Việt Nam, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã góp phần xứng đáng vào sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng đất nước. Đại Tướng đã thực hiện trọn vẹn lời dạy của Hồ Chủ Tịch khi Người đến thăm Đền Hùng năm 1954: Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ nước.