Trả lời:
Luật sư Nguyễn Thị Huế - Đoàn luật sư TP.Hà Nội trả lời câu hỏi của bạn đọc như sau:
Theo Khoản 1 Điều 202 Luật Đất đai 2013 thì khi xảy ra tranh chấp, Nhà nước khuyến khích các bên tranh chấp đất đai tự hòa giải hoặc giải quyết tranh chấp đất đai thông qua hòa giải ở cơ sở.
Nếu các bên tranh chấp không hòa giải được thì gửi đơn đến UBND cấp xã nơi có đất để yêu cầu hòa giải.
Trường hợp hòa giải không thành thì được giải quyết như sau:
Tranh chấp đất đai mà đương sự có Giấy chứng nhận hoặc có một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật Đất đai 2013 và tranh chấp về tài sản gắn liền với đất thì do Tòa án nhân dân giải quyết (khởi kiện tại toà án).
Tranh chấp đất đai mà đương sự không có giấy chứng nhận hoặc không có một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật Đất đai 2013 thì chỉ được lựa chọn một trong hai hình thức sau: Theo thủ tục hành chính, trường hợp tranh chấp giữa hộ gia đình, cá nhân do Chủ tịch UBND cấp huyện nơi có đất giải quyết; trường hợp tranh chấp mà một bên tranh chấp là tổ chức, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì Chủ tịch UBND cấp tỉnh giải quyết. Theo thủ tục tố tụng dân sự (khởi kiện tại Tòa án nhân dân nơi có đất đang tranh chấp).
Căn cứ Khoản 2 Điều 3 Nghị quyết 04/2017/NQ-HĐTP quy định, đối với tranh chấp ai là người có quyền sử dụng đất thì bắt buộc phải được hòa giải tại Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất tranh chấp theo quy định tại Điều 202 Luật Đất đai năm 2013.
Đối với tranh chấp khác liên quan đến quyền sử dụng đất như: Tranh chấp về giao dịch liên quan đến quyền sử dụng đất; tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng đất; chia tài sản chung của vợ chồng là quyền sử dụng đất… thì không bắt buộc phải thông qua thủ tục hòa giải tại cơ sở.
Vui lòng nhập nội dung bình luận.