Lê Hiển Tông, vị hoàng đế thứ 26 của nhà Hậu Lê là vị vua có rất nhiều giai thoại và câu chuyện ly kỳ, lạ lùng. Ngay cả đến niên hiệu của ông cũng gắn với một câu chuyện "nhìn chữ đoán mệnh".
Lê Hiển Tông tên thật là Lê Duy Diêu, con trai trưởng của vua Lê Thuần Tông. Vua sinh tháng 4 năm Đinh Dậu (1717), mất tháng 7 năm Bính Ngọ (1786), thọ 69 tuổi, là một trong số những vị vua có tuổi thọ cao nhất và là vị vua thọ nhất triều Hậu Lê. Vị hoàng đế này cũng là một trong những người ở ngôi lâu nhất trong lịch sử Việt Nam và là người làm vua lâu nhất triều Hậu Lê.
Hoàng đế thiết triều (Hình minh họa)
Lê Hiển Tông khi còn trẻ phải trải qua một thời gian bị giam cầm khổ ải. Cha của ông là Lê Thuần Tông (Lê Duy Tường) với niên hiệu Long Đức ở ngôi chưa đầy 3 năm (1732-1735) thì lâm bệnh mất ngày 15 tháng 4 năm Ất Mão (1735), thọ 36 tuổi.
Theo điển chế, lẽ ra Hoàng tử Lê Duy Diêu – con cả của vua sẽ lên ngôi kế vị, thế nhưng chúa Trịnh Giang ngang ngược cho rằng hoàng tử không xứng đáng nên sai quần thần phải tìm vị hoàng thân nào có tài đức thì đón lập lên làm vua. Thấy em ruột Lê Thuần Tông là Lê Duy Thần tuổi còn trẻ sẽ dễ bề thao túng nên chúa Trịnh Giang đưa vào cung tôn lên ngôi vào ngày 27 tháng 4 năm Ất Mão (1735).
Sách Đại Việt sử ký tục biên cho biết như sau: "Trước đó vua [tức Thuần Tông] bị ốm, chúa Trịnh Khương (Giang) sai trọng thần vào tẩm điện chăm sóc, nhân đó xét hoàng thân xem ai đáng lập làm vua. Lúc bấy giờ con trưởng của vua là Duy Diêu (sau này là Hiển Tông Vĩnh hoàng đế) tuổi đã 19. Em vua là Duy Thần, là cháu gọi Thái phi Vũ thị bằng cô, được nuôi ở trong phủ chúa, tuổi 17.
Chúa ngại Duy Diêu đã trưởng thành, có trí khôn và nghĩ Duy Thần là chỗ thân quyến quen lờn, dễ chế ngự, bèn nói thác rằng Duy Thần có diện mạo giống tiên đế (Dụ Tông) nên quyết ý lập làm vua; quần thần cũng theo ý chúa, không ai bàn khác cả. Ngày Giáp Ngọ cáo ở Thái Miếu. Ngày Bính Thân, Duy Thần lên ngôi hoàng đế, đổi niên hiệu là Vĩnh Hựu".
Nhiều thân vương bất bình về việc này, trong đó có một người em khác của Lê Thuần Tông là hoàng thân Lê Duy Mật đã nổi binh đánh lại họ Trịnh nhằm khôi phục quyền lực cho vua Lê, chính vì thế mà Hoàng tử Lê Duy Diêu bị chúa Trịnh Giang nghi ngờ đem bắt và giam cầm ở nhà viên quan nội thị Hồng quận công, sau chuyển đến giam ở nhà cậu mình là Vũ Tất Thận.
Trong sách Nam Thiên trân dị tập (Những truyện quý lạ của nước Nam) có một chuyện nhan đề Cổ quái bốc sư truyện (Truyện ông thầy cổ quái) đề cập đến những diễn biến xảy ra trong khoảng từ năm Ất Mão (1735) đến năm Canh Thân (1740) với diễn biến chính là cuộc chính biến lật đổ chúa Trịnh Giang lập chúa Trịnh Doanh và việc ép vua Lê Ý Tông nhường ngôi để lập vua Lê Hiển Tông. Trong truyện này có phần nhắc đến xuất xứ, ý nghĩa của niên hiệu Cảnh Hưng mà vua Lê Hiển Tông lựa chọn sử dụng trong thời gian trị vì của mình.
Cổ quái tiên sinh
Chuyện kể rằng, khi đó ở kinh đô xuất hiện một ông thầy thường được gọi là "Cổ quái tiên sinh" tự xưng là am tường mọi thuật của nghề xem tướng, nhưng thuật đoán chữ thì tinh thông nhất. Người đến xem chỉ cần tự viết một chữ, ông ta sẽ đoán được vận mệnh thế nào.
Ông thầy lạ kỳ. (Hình minh họa – Nguồn: art-vn)
Lúc bấy giờ có ba nhân vật là Võ Thế Giai, Hoàng Ngũ Phúc, Nguyễn Thế Trương tuy có tài nhưng không được sử dụng, bèn nhờ ông thầy đoán chữ để tìm minh chủ, từ đó mà trở thành gia khách của ông Trung công - cậu của chúa Trịnh Toàn Vương (Trịnh Giang) rồi cùng ông này phù giúp mẹ của chúa diệt hết đám hoạn quan lộng quyền, truất ngôi chúa của Trịnh Giang khi vị chúa này sức khỏe giảm sút, hoang dâm, tàn ác rồi lập em chúa là Trịnh Doanh – một người tài năng, đức độ lên kế vị ngôi chúa.
Theo nội dung Cổ quái bốc sư truyện thì vì phục tài ông thầy kia nên Trung công mới bảo Võ Thế Giai nhờ ông ta xem ai xứng đáng ở ngôi Thiên tử đồng thời cho biết mình đang giam giữ hoàng tử Lê Duy Diêu, con cả của Long Đức đế (tức vua Lê Thuần Tông), nay để hoàng tử viết một chữ để xem có thể đảm đương được ngôi báu không.
"Thế Gia vâng theo, tới chỗ Hoàng tử bị giữ, nói rõ lý do rồi nhân có cuốn từ vựng ở đó, mở ra tìm được chữ Cảnh, bảo hoàng tử viết lại. Rồi mang chữ ấy đến hỏi thầy. Ông này đem dán ngay lên mái nhà, khấu đầu 5 lạy, miệng hô: Vạn tuế! Vạn tuế!.
Thế Giai vô cùng kinh ngạc hỏi:
- Tiên sinh sao mà biết được?
Ông trả lời:
- Mặt trời chiếu xuống kinh sư, chẳng phải ngôi Cửu ngũ còn là gì? Song chữ "Nhật" nhỏ mà chữ "Kinh" lớn, tuy được hưởng nước lâu, song quyền bính không khỏi chuyển vào tay kẻ dưới.
Thế Giai cúi đầu bái phục, đem lời ấy về báo lại với Trung công".
Theo Hán tự, chữ "Cảnh" được ghép gồm 2 chữ, chữ "Nhật" (mặt trời) ở phía trên, phía dưới là chữ "Kinh" (kinh sư, kinh đô). Do đó ông thầy mới đoán là "Mặt trời chiếu xuống kinh sư".
Mưu toan chuyện lớn. (Hình minh họa – Nguồn: nxbtre)
Sau khi đưa Trịnh Doanh lên ngôi chúa, vì có công tôn lập nên Võ Thế Giai được làm Hành Chưởng phủ, Nguyễn Thế Trương được coi giữ cấm binh, Hoàng Ngũ Phúc được ban tước. Những người này cùng với Trung công mật bàn với Quốc sư Thượng thư quận công Nguyễn Qúy Cảnh về việc cứu hoàng tử Lê Duy Diêu ra khỏi ngục để lập làm vua. Sau khi bàn bạc xong, "Cảnh với Trung công vào trong nội thất, bảo rằng:
- Nên đem gạo thơm vào trong nội thất, nấu lấy 3 nồi đồng cháo, cho người trèo lên mái nhà nơi Hoàng tử đang bị giam, rải cháo lên mái ngói thành hình rồng uốn lượn. Đến sáng ra, Trung công vào trong phủ phục tội, tôi sẽ tương kế tựu kế.
Trung công làm theo, đem cháo rải trên mái nhà ấy rồi vào phủ, lột mũ ra tạ tội. Chúa triệu Qúy Cảnh vào hỏi can do. Cảnh nói:
- Đó là điềm bậc quân vương đấy. Trung công là bậc nhân thần, không liên can gì đến việc ấy. Xin vương thượng thân hành đến tận nơi để phân biệt thực hư.
Chúa lập tức tới nơi, thấy trên nóc nhà có hình rồng uốn khúc. Sai nội thị lên nóc nhà xem xét kỹ, thấy có mùi thơm. Qúy Cảnh gãi đầu thưa:
- Nước rãi rắn thì tanh. Còn nước rãi rồng thì thơm. Chỉ sợ nếu Trung công để xảy ra việc bất thường, tội ắt phải chém.
Trung công khấu đầu tạ lỗi. Chúa bảo tả hữu lui ra, đi thẳng vào nội thất xem xét, chỉ thấy có hoàng tử Long Đức đang bị xích ở đó, quân hầu không dám che giấu. Chúa ngoảnh nhìn người bị xích, hỏi Qúy Cảnh:
- Đây là ai vậy?
Cảnh vội bước lên lạy thưa:
- Quốc cữu thực không có tội. Đó là điềm Hoàng thái tử. Chỗ có rãi rồng chính là nơi giam giữ Hoàng tử mới có điềm rồng như vậy.
Minh vương [Trịnh Doanh] vội cung kính đến lạy trước người bị xích, rồi lập tức hạ lệnh tháo xích, mang sập đến mời Hoàng tử ngồi. Lại cùng Trung công, Qúy Cảnh dâng biểu, đại ý nói: Hoàng thượng hiện nay chỉ là chi thứ nối nghiệp. Nay Hoàng tử tuổi và đức đều cao. Bệ hạ nên nhàn hưởng tuổi trời, phó thác việc nước lại cho người khác để thỏa lòng mong mỏi của bàn dân thiên hạ.
Hoàng đế xem biểu, hồi tưởng lại điềm chữ "ý", bèn theo lời tâu, truyền ngôi cho Hoàng thái tử, lui về cung Càn Thọ. Đình thần xin cải nguyên cho Hoàng đế mới, trước lấy chữ Cảnh, sau thêm chữ Hưng.
Ông thầy trước đây nghe thấy thế, nói riêng rằng:
- Chữ Hưng có cái điềm 46 năm. Song đầu chữ Hưng có cái dáng ba chữ Nhật, mặt trời đều bị xâm thực, ở giữa hơi cao, hai bên hơi thấp, hưởng lộc chỉ có 3 đời".
Nhờ một chữ viết mà thoát khỏi ngục tù. (Hình minh họa – Nguồn: sachxua)
Về việc thay đổi ngôi vua, chính sử cho biết tháng giêng năm Canh Thân (1740), mẹ Trịnh Giang bàn với một số đại thần đưa em Trịnh Giang là Trịnh Doanh lên thay ngôi chúa, tôn Trịnh Giang làm Thái thượng vương.
Thay anh ở ngôi chúa, Trịnh Doanh đã thực hiện một loạt các biện pháp nhằm khắc phục những sai lầm của thời Trịnh Giang cầm quyền. Khi đó Lê Ý Tông đã ở ngôi được gần 5 năm; "lúc bấy giờ trong nước nhiều biến cố, dân sinh hai lòng. Chúa Trịnh Doanh nghĩ rằng hoàng điệt Duy Diêu (cháu gọi vua bằng chú) là ngành trưởng đáng làm vua, nên theo đúng phép tắc để lấp đường kẻ phản trắc. Bèn xin vua trả ngôi cho cháu trưởng để trong nước yên ổn. Vua nghe theo, lấy ngày 21 Canh Thân truyền ngôi.
Tờ chiếu truyền ngôi có câu rằng: Nghĩa chốn biên cương còn có đứa ngu xuẩn, ngang ngạnh, muốn cho kinh kỳ được yên mà bờ cõi được yên lặng, xét lẽ chính đáng nên duy tôn dòng đích, cốt để trọng tông thống mà thống nhất nhân tâm". Tờ chiếu ban xuống, dân tình vui mừng lắm. Ngày ấy Duy Diêu lên ngôi hoàng đế, đổi niên hiệu là Cảnh Hưng, tôn vua là Thái thượng hoàng" (Đại Việt sử ký tục biên).
Chuyện Lê Ý Tông bị ép trả ngôi cho cháu còn liên quan đến một câu chuyện kỳ lạ, sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục viết: "Duy Diêu, râu rồng, mắt phượng, là con trưởng Thuần Tông và là cháu nhà vua [Ý Tông Duy Thận]. Duy Diêu lấy địa vị người con trưởng, đáng được lập làm vua từ trước.
Nhưng vì chú ruột là Duy Mật dấy quân, nên Trịnh Giang truất đi, đã lâu vẫn bị giam cấm. Trịnh Doanh mật sai người dời Duy Diêu đến ở nhà Bính quận công Vũ Tất Thận. Trước đây, Tất Thận chưa biết việc này. Một đêm, nằm mộng thấy một người "kẻ cả" đến nhà, cờ quạt âm nhạc, hệt như nghi trượng thái bình thiên tử. Sáng hôm sau, thấy Duy Diêu đến. Tất Thận bèn đem việc này nói với Doanh. Doanh muốn nhờ vào phúc đức Duy Diêu, mới cùng các đại thần bàn định tôn lập làm vua và xin nhà vua nhường ngôi cho Duy Diêu".
Đoàn rước vua Lê
Niên hiệu chính là danh hiệu của một vị vua được đặt khi lên ngôi, sử dụng trong suốt thời gian cai trị hoặc trong giai đoạn nhất định mà vị vua đó cầm quyền, vừa để tính năm trị vì, vừa để thần dân trong nước gọi các ngài thay cho tên chính để tránh phạm húy.
Về nguyên tắc, niên hiệu được lựa chọn rất cẩn thận vì nó là danh hiệu của người đứng đầu quốc gia với quyền lực to lớn, do đó niên hiệu khi đọc nên nghe phải có ân vang và trong sáng, ý nghĩa gửi gắm những sự cầu ước, nói lên điềm lành và có sự gắn kết với triết lý vương quyền, thần linh; thí dụ như các chữ liên quan đến trời, đến biểu tượng đế vương như chữ Thiên, Càn, Long…
PV (Trí Thức Trẻ)
Vui lòng nhập nội dung bình luận.