Trong phiên chất vấn trước Ủy ban Kinh tế của Quốc hội gần đây, Bộ trưởng Bộ NNPTNT Cao Đức Phát đã khẳng định hướng đi sắp tới của nông nghiệp Việt Nam là phải hướng tới thị trường, hướng tới hàng hóa chất lượng cao, phải sản xuất theo chuỗi, không để bị cắt khúc…
Bộ trưởng có nêu ra ví dụ về nuôi lợn: Đã đến lúc phải quan tâm hơn tới các giống lợn bản địa mà cho chất lượng thịt cao. Nó sẽ thành đặc sản, có đặc sản thì chúng ta mới có thể cạnh tranh được với nước bạn. Ta phải đưa ra cái mà người ta không có nhưng họ lại thích. Lâu nay, trong thực tế, hễ ta có cái gì mà bạn cũng có thì y như rằng, ta lại sắp xếp sau bạn. Ta cứ thử nhìn vào các loại hoa quả của ta như: Na, ổi, chuối, mít, hồng xiêm, xoài, đu đủ, táo, sầu riêng… Hầu như tất cả các giống ấy của ta đều thua giống của Thái Lan, Đài Loan, Trung Quốc, Malaysia… Ta chỉ mạnh những thứ mà chỉ có mình nước ta trồng hoặc diện tích trồng của ta là chủ yếu như: Hồ tiêu, cao su, cà phê, lúa gạo, sắn… Vì vậy, đã tới lúc ta cần đẩy mạnh việc sản xuất những loài đặc sản mà chỉ ở ta mới có hoặc mặt hàng của ta mà bạn bè trên thế giới hâm mộ.
Riêng trong lĩnh vực chăn nuôi, có rất nhiều loài cần được đánh giá lại cho đúng giá trị của nó để đưa vào sản xuất. Tôi nhớ có lần, TS-Võ Văn Sự - một chuyên gia về các loài động vật quý hiếm của Viện Chăn nuôi đã nói với tôi: “Có khi ta phải xem xét lại về lợn ỉ. Tuy nó tăng trọng kém và nhiều mỡ nhưng mỡ của nó lại ngon hơn hẳn mỡ của các loại lợn công nghiệp…”.
Độc đáo mới dễ “hái ra tiền”
Lợn Ỉ. Tư liệu
Trong dịp sang thăm Trung Quốc, một nữ giáo sư nổi tiếng của bạn đã giới thiệu cho chúng tôi về giống lợn mi-ni do bà gây tạo. Con lợn đó nuôi mấy tháng rồi mà chắc chỉ độ 10kg. Bà cho biết, giống lợn mi-ni này có thịt rất ngon. Khi quay lên, nó chỉ để vừa đúng một đĩa sứ lớn để đãi khách. Tuy nhỏ như vậy nhưng giá của nó ngang bằng với con lợn 40kg! Chúng tôi hết sức ngạc nhiên. Ngay lúc đó, chúng tôi đã nghĩ tới việc phải lao ngay vào nghiên cứu vấn đề này. Thế nhưng, nước ta thời đó còn đang thiếu thịt. Nêu vấn đề này ra, có khi còn bị… mắng! Vì vậy, chúng tôi quay sang tập trung nghiên cứu các loài đặc sản khác.
Trước hết, bọn tôi đi vào các con thủy đặc sản như: Ba ba, ếch, lươn, cua biển… Các kết quả khảo nghiệm rất mỹ mãn. Chúng tôi xây dựng thành quy trình rồi phổ biến rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng và viết thành sách để bà con các nơi có thể nuôi theo. Cả một phong trào nuôi thủy sản rộ lên trên khắp đắt nước. Cho tới nay, nó vẫn được duy trì tốt. Chỉ tiếc rằng, vai trò của Nhà nước trong việc tổ chức sản xuất và tiêu thụ chưa rõ nét nên nó vẫn dừng ở tình trạng tự sản, tự tiêu. Nếu chúng ta đánh giá đúng giá trị của nó thì mấy loài đặc sản này khác gì các loại cá da trơn, ta hoàn toàn có thể đưa nó vươn xa trên thị trường thế giới. Lúc đó, quy mô sản xuất sẽ được nâng lên cùng với công nghệ bảo quản và chế biến. Ta nên xem xét lại vấn đề này và coi đó là tiềm năng để giúp dân vươn lên.
Về các loài bò sát, ta đã có truyền thống nuôi rắn độc, ví dụ như ở xã Vĩnh Sơn (Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc). Ở đó, cả làng đều nuôi rắn, chỗ nào cũng có rắn. Rắn hổ mang, rắn cạp nong, rắn cạp nia được nuôi đầy trong các gia đình. Đấy là loại sản phẩm cao cấp. Ngoài thịt rắn, người ta còn thu lấy nọc. Nọc càng độc thì giá bán càng cao! Nghề nuôi rắn độc còn có ở nhiều địa phương khác nữa. Bây giờ, người ta còn nuôi cả rắn để ăn thịt như rắn ráo, rắn hổ trâu, rắn ri voi và nuôi cả trăn. Ở đồng bằng sông Cửu Long đã từng có ông “vua rắn ri voi” Lê Hùng Minh ở Sóc Trăng. Anh đã từng gửi cho tôi những bức ảnh chụp chung với rắn. Những con rắn to sụ, thân bằng bắp tay, dài cả mét mà anh để nó nằm quanh mình như mèo, như chó. Rắn ri voi có thịt rất ngon. Nhiều nước mê món rắn ri voi của ta. Sao chưa ai nghĩ tới việc nuôi rắn ri voi đại trà như kiểu nuôi cá, nuôi lươn?! Nó đủ sức giúp cho bà con ta ở Nam Bộ có thêm một nghề rất mau vươn lên được giàu có. Tất nhiên, chỗ này cần vai trò của khoa học kỹ thuật để hỗ trợ thêm trong mọi khâu từ kỹ thuật nuôi, thức ăn và cả trong bảo quản, chế biến nữa.
Trại rắn của anh Nguyễn Văn Tuẩn (sinh năm 1975, ngụ ấp 3, xã Mỹ Quý Đông, Đức Huệ, tỉnh Long An). Ảnh: Hữu Danh.
Cá sấu cũng là một loài bò sát rất nên phá triển. Nghề nuôi cá sấu cũng đã có mặt ở khắp các vùng. Ngay ở phía Bắc, tuy có mùa đông giá rét nhưng cũng có nhiều cơ sở vẫn nuôi cá sấu thành công. Vì vậy, ta cũng nên đưa nó vào tầm ngắm để nâng lên thành một nghề phổ cập trong dân.
Đơn giản hơn thì có con ba ba. Ba ba đã thành loài vật nuôi có mặt ở khắp nơi, suốt từ miền núi đến miền xuôi. Ba ba là loại thực phẩm cao cấp. Hơn thế nữa, ở nhiều nước, ba ba còn được coi là một vị thuốc quý. Đặc biệt là ba ba gai và ba ba trơn nuôi ở phía Bắc. Người Nhật đã đến gặp chúng tôi để trao đổi về vấn đề này. Họ cho rằng, ba ba ở phía Bắc có một thời gian ngủ đông. Đó là lúc nó tích lũy các chất quý mà người ta coi đó là thuốc. Họ cần mua với số lượng lớn. Nếu ta muốn đáp ứng được thì phải tổ chức nuôi theo quy mô hiện đại, phải có sự tham gia của Nhà nước…
Khai thác “kho vàng” nguồn gen quý
Con kỳ đà cũng được dân ta nuôi khá phổ biến. Tôi tới thăm gia đình chị Tâm (ở Lộc An, Bảo Lộc, Lâm Đồng). Chị nuôi tới hơn 200 con kỳ đà. Con to cũng được 6-7kg. Nuôi nó cũng dễ, chỉ khó khăn thức ăn. Nếu chủ động được thực ăn thì rất nên nuôi kỳ đà. Giá thịt kỳ đà có rẻ đâu! Chỉ nuôi dăm con là đã có được một món tiền to. Nó lại thích ăn trên những thứ bỏ đi như trứng thối, gà con, vịt con chết, cá ươn… Tức là những loại thức ăn động vật đã bốc mùi. Ở các trại úm gà, bà con hay kết hợp nuôi thêm kỳ đà.
Suốt dọc miền Trung, ta còn có thể tổ chức nuôi nhông cát. Con nhông không xa lạ gì với bà con chúng ta. Nhiều người mê thịt nhông. Trước đây, chỉ có dân ta ăn nhông. Nay, “Tây” sang tắm ở Mũi Né cũng lùng sục đi tìm nhông cát để nhắm rượu. Họ cũng thích món nhông nước chấm tương ớt như dân ta. Một công ty của Đài Loan muốn mở một trang trại ở Bình Thuận để thu mua nhông cát và đưa về bên họ. Do đó, ta cũng nên đưa nhông cát vào danh sách của loài đặc sản cho riêng vùng cát nóng ở miền Trung.
Đối với gia cầm, ngoài các giống gà công nghiệp (mà ta rất khó cạnh tranh với nhiều nước trên thế giới) ta nên phát triển mạnh các giống gà bản địa, các giống đặc sản khác của ta. Hiện nay, con trĩ đỏ được nuôi khá nhiều. Thịt trĩ rất ngon; sao ta không tổ chức nuôi lớn rồi xuất bán ra cho thế giới? Vịt trời cũng vậy. Anh nông dân Tô Quang Dần ở tít tận Lục Nam (Bắc Giang) mà cả nước tiến tới đểm xem anh nuôi vịt trời như thế nào. Bây giờ thì nhiều người đã biết nuôi vịt trời. Vậy, ta có thể đẩy mạnh nó thành một hướng sản xuất lớn được không?!
Ngoài ra, ta còn gà Đông Tảo, gà mía, gà tre, gà rừng, gà ác… và nhiều loại gà quý ở từng địa phương. Chúng cũng nên được tổ chức sản xuất lớn để đưa ra các nơi. Đặc biệt, loài gà khổng lồ - con đà điểu càng nên tính toán để hình thành một ngành nuôi lớn.
Chúng ta còn rất nhiều các loại động vật có thể tổ chức nuôi lớn như: Nhím, lợn rừng, cầy hương, dúi… Chúng đều được coi là con đặc sản. Chúng tôi đã nghiên cứu kỹ và viết thành quy trình nuôi cho từng loại đó để bà con hiểu và nuôi được. Sách đã được in trong bộ sách “100 nghề cho nông dân” mà nhà xuất bản nông nghiệp đã phát hành.
Nuôi các con đặc sản nên trở thành một hướng sản xuất lớn, nhưng phải có sự điều tiết và chỉ đạo của Nhà nước. Nó có thể giúp cho bà con ta vươn lên làm giàu.
Chuyên gia Nguyễn Lân Hùng (Email: 1001cachlaman@gmail.com) (Trang Trại Việt)
Vui lòng nhập nội dung bình luận.