Lời ca khúc Chiếc áo bà ba của nhạc sĩ Trần Thiện Thanh gợi nhớ hình ảnh tự
xa xưa:
"Chiếc áo bà ba trên dòng sông thăm thẳm/ Thấp thoáng con xuồng bé nhỏ mong manh
Nón lá đội nghiêng tóc dài con nước đổ/ Hậu Giang ơi em vẫn đẹp ngàn đời..."
Phải nói ngay rằng áo ba ba
gắn liền với con người vùng đất Cửu Long giang này ngay từ
những ngày đầu mở cõi. Đặc biệt, chiếc áo bà ba làm cho người phụ nữ miền Tây sông nước
thêm duyên dáng, xinh tươi.
Thân thương chiếc áo bà ba.
Nhà văn Sơn Nam trong công trình Văn minh miệt vườn in năm 1970, trang 43, ông viết: Chiếc áo bà ba mà người miền Nam ưa thích là vạt ngắn, không bâu...
Và ở đoạn khác, trang 201, nhà Nam bộ học này cho biết thêm: Ở miệt vườn, miệt Hậu Giang thời Pháp thuộc, cái áo dài đàn ông không được thông dụng cho lắm. Kiểu quần áo bà ba là tiện lợi nhứt, đồng thời quần áo bà ba cũng tiêu biểu cho sự trang nghiêm trong giới trung lưu... Áo bà ba gọn gàng, cởi ra bận vào dễ dàng, giúp con người đi đứng khoan thai, ít câu thúc.
Nếu như đàn ông lam lũ hay
mặc áo bà ba đen, xám, các điền chủ giàu có thì vận bộ bà ba trắng chống gậy ba
ton, thì áo bà ba của người phụ nữ miền Tây lại khá đa dạng. Thiếu nữ thích may
áo cổ trái tim, có người may áo cổ cánh sen, các bà, các mẹ đứng tuổi thì thích
bận áo bà ba cổ tròn cho kín đáo. Tay áo cũng có kiểu tay ngang và tay ráp lăng
(ráp xéo chỗ giáp vai và thân áo),…
Áo bà ba thường bận với quần có đáy, hai ống, lưng quần cột bằng dây, sau này thì luồn dây thun,…Vải may áo bà ba lại đủ màu
sắc trắng, xanh, vàng, tím, hay bông hoa sặc sỡ. Có điều người bận áo bà ba
thường bận quần đen, hoặc trắng, các cô e lệ choàng thêm chiếc khăn rằn quấn
cổ, mái tóc dài đen nhánh bỏ xõa đã làm xao xuyến không biết bao trai
làng.
Duyên dáng với chiếc áo bà ba.
Hình ảnh cô gái tưới đậu,
trồng khoai bưng cơm ra đồng cho thợ cấy, phất phơi tà áo bà ba, chiếc nón lá
quai hường gió thổi bật ra sau, … đã trở thành cảm hứng của biết bao lời thơ, ý
nhạc.
Áo bà ba ảnh chụp năm 1949 (Ảnh sưu tầm)
Soạn giả cải lương Thanh
Bình viết Áo bà ba kỉ niệm ngày thu, danh ca Minh Cảnh thể hiện để rồi
mấy chục năm qua cứ mỗi lần quây quần nhâm nhi vài ly rượu đế là người ta ngẫu
hứng ca khan mấy câu vọng cổ:
"Anh về đây ngỡ ngàng bên lối nhỏ/ Ba mươi năm trời kỉ niệm vẫn không nguôi
Chiếc áo bà ba trao em giữa ngày vui/ Áo đã theo anh đi đuổi Tây, đánh Mỹ"
Đối với người Khmer thì
chiếc áo bà ba còn quan trọng hơn. Mỗi khi đi lễ chùa, trang phục chính của cả
nam lẫn nữ đều là áo bà ba, có điều chiếc khăn rằn được xếp ngay ngắn và vắt
thõng trên vai. Lên chánh điện lạy Phật, chắp tay niệm kinh,… hay những khi
thực hiện nghi lễ trong đám cưới, đám tang,… vẫn trang phục và hình ảnh như
vậy, không thay đổi.
Áo bà ba chụp năm 1949 (Ảnh sưu tầm)
Không biết có phải vì chiếc
áo bà ba gắn liền với ruộng vườn hay duyên cớ từ đâu mà áo bà ba được gắn cho
nét đẹp quê mùa. Và cũng chính từ quan niệm ấy, nên khi nền kinh tế phát triển,
cái nhìn thẩm mỹ cũng ít nhiều thay đổi, nói như nhà thơ Nguyễn Bính thì hương
đồng cỏ nội bay đi ít nhiều. Và rồi, những kiểu áo kiểu, áo thun, áo sơ mi, …
dần dần thay thế vị trí của áo bà ba.
Rồi đây, chiếc áo bà ba, dấu
ấn trang phục và văn hóa một thời của vùng sông nước miền Tây sẽ chỉ còn lại trên sân khấu,
phim ảnh hay trong những lần hội thi đờn ca tài tử. Thực tế, ít người bận, và
rồi dần dần cũng ít đi người biết may áo bà ba.
Lặng nhìn, lắng lòng mà
thương mà nhớ như một nét đẹp chỉ còn vang bóng như nhân vật trữ tình tương tư
trong câu hò vọng về tận ngày xửa ngày xưa:
Em bận áo bà ba đen
Nước da em trắng
Đôi má ngấn đồng tiền
Đêm nằm anh thao thức
Năm canh liền nhớ em!
Vui lòng nhập nội dung bình luận.