Đường sắt đô thị chính thức hưởng cơ chế đặc biệt, Hà Nội và TP.HCM được "quyết" kiến trúc công trình, nhà ga
Đường sắt đô thị chính thức hưởng cơ chế đặc biệt, Hà Nội và TP.HCM được "quyết" kiến trúc công trình, nhà ga
An Linh
Thứ tư, ngày 19/02/2025 09:20 AM (GMT+7)
Với 100% đại biểu tán thành, Quốc hội chính thức thông qua Nghị quyết về thí điểm cơ chế đặc thù để phát triển đường sắt đô thị TP. Hà Nội và TP. HCM. Đây là quyết sách quan trọng nhằm "phá băng" cho hàng chục dự án đường sắt đô thị nằm chờ nhiều năm qua tại hai đô thị lớn nhất nước.
Sáng nay 19/2 tại Hội trường, Quốc hội biểu quyết thông qua Nghị quyết thí điểm cơ chế đặc thù phát triển đường sắt đô thị ở Hà Nội và TP.HCM. Với 459/459 số đại biểu tán thành, bằng 100% số đại biểu tham gia, Quốc hội chính thức thông qua chủ trương thí điểm cơ chế đặc thù để phát triển mạng lưới đường sắt tại các hai đô thị lớn nhất nước.
Cho phép các thành phố quyền thi tuyển kiến trúc đường sắt đô thị
Với 100% số đại biểu tham gia tán thành, Quốc hội đồng ý thí điểm chủ trương cơ chế đặc thù cho các dự án đường sắt đô thị tại TP. Hà Nội, TP.HCM (Ảnh: NT).
Tại báo cáo tiếp thu, giải trình ý kiến của đại biểu Quốc hội đưa ra, Ông Hoàng Thanh Tùng, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật và Tư pháp, Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho biết: Tại thảo luận tại Quốc hội, một số ý kiến đề nghị cân nhắc việc không thực hiện thi tuyển phương án kiến trúc đối với các công trình nhà ga, cầu, nút giao.
UBTVQH cho biết: Để bảo đảm tiến độ của các dự án và các yếu tố mang tính tầm nhìn dài hạn của các công trình này, dự thảo Nghị quyết đã quy định theo hướng giao quyền cho hai Thành phố "được quyết định" việc có hay không thi tuyển kiến trúc đối với các công trình đường sắt đô thị.
Theo đó, Ủy ban nhân dân Thành phố sẽ xem xét, quyết định tổ chức thi tuyển kiến trúc đối với các công trình cần bảo đảm bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa, cảnh quan đô thị, tạo sức hút và tăng tính hấp dẫn đối với hành khách sử dụng đường sắt đô thị.
Đối với các công trình đường sắt đô thị không thực hiện thi tuyển phương án kiến trúc, các thành phố quyết định lựa chọn trên cơ sở một số phương án kiến trúc do tư vấn đề xuất.
Trước đó, tại Tờ trình của Chính phủ, Chính phủ khẳng định đường sắt đô thị là xương sống của các quốc gia, hiện 200 thành phố lớn trên thế giới đều ưu tiên phát triển đường sắt đô thị để đáp ứng nhu cầu vận tải hành khách đô thị, là giải pháp căn cơ đề giải bài toán ùn tắc, ô nhiễm môi trường và tai nạn giao thông.
Tại Việt Nam, hai thành phố lớn là Hà Nội và TP.HCM đã bắt đầu xây dựng từ năm 2007, tuy nhiên tiến độ triển khai chậm, không đáp ứng được yêu cầu do quá trình triển khai gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, đặc biệt là các quy định về trình tự, thủ tục đầu tu, huy động nguồn lực và tổ chức thực hiện.
Đầu tự phát triển đường sắt đô thị là tất yếu khách quan, giải pháp quan trọng, căn cơ để phát triển đô thị hiện dại, bền vững, gắn với bảo vệ mỗi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu.
Việc xây dựng Nghị quyết của Quốc hội nhằm huy động mọi nguồn lực hợp pháp, rút ngăn tôi đa tiên độ thực hiện, khai thác có hiệu quả nguồn lực quy đất; phân cấp, phần quyền mạnh mẽ cho hai Thành phố trong việc triển khai đầu tư, phát huy tính chủ động, tích cực của hai Thành phố.
Kỳ vọng đột phá tốc độ các dự án
6 nhóm chính sách đặc thù cho đường sắt bao gồm các cơ chế đột phá về: Huy động nguồn vốn; cơ chế đặc biệt trong trình tự, thủ tục thực hiện đầu tư; cơ chế đặc biệt để phát triển đô thị theo mô hình TOD; cơ chế đặc biệt để phát triển công nghiệp đường sắt, chuyển giao công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực; chính sách vật liệu xây dựng và bãi đổ thải; và cuối cùng là cơ chế đặc biệt để áp dụng các quy định riêng cho Thành phố Hồ Chí Minh.
Trước đó, tại báo cáo thẩm tra đề xuất tại Tờ trình dự thảo Nghị quyết của Chính phủ, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội cho rằng: Các nhóm chính sách này được xây dựng trên cơ sở kế thừa các chính sách đặc thù, đặc biệt đã được Quốc hội cho phép trong thời gian qua tại Luật Thủ đô, Nghị quyết số 172/2024/QH15 về chủ trương đầu tư Dự án đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam. Do đó, cơ bản thống nhất với đề xuất của Chính phủ.
Tuy nhiên, cơ quan Uỷ ban Thường vụ cho rằng, về chính sách đặc thù trong huy động nguồn vốn, tại điểm a khoản 1 Điều 4 dự thảo Nghị quyết, đề nghị làm rõ trong trường hợp giảm hoặc bổ sung thêm dự án so với Phụ lục danh mục dự án kèm theo Nghị quyết này thì số vốn ngân sách trung ương bổ sung có mục tiêu cho ngân sách địa phương để thực hiện dự án sẽ được xác định như thế nào để tránh khoảng trống pháp lý trong quá trình triển khai, thực hiện.
Về trình tự, thủ tục thực hiện đầu tư, Uỷ ban Kinh tế cho rằng: Về lập tổng mức đầu tư, dự thảo gói thầu (khoản 6 Điều 5 dự thảo Nghị quyết): Ủy ban Kinh tế nhận thấy, dự thảo Nghị quyết xác định có 2 loại dự án là dự án đường sắt đô thị và dự án đường sắt đô thị theo mô hình TOD.
Theo đó, tại điểm a xác định loại dự án được áp dụng chính sách là dự án đường sắt đô thị và dự án đường sắt đô thị theo mô hình TOD, tuy nhiên tại điểm b, c lại chỉ xác định là dự án. Mặt khác, Dự án đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam chỉ cho phép áp dụng chính sách này đối với dự án tuyến đường sắt, không bao gồm dự án thuộc khu vực TOD. Do đó, đề nghị thuyết minh, làm rõ.
Về phát triển theo mô hình TOD, Ủy ban Kinh tế nhận thấy, quy định tại điểm b khoản 1 Điều 5 và điểm b khoản 1 Điều 6 dự thảo Nghị quyết có phần trùng lặp và quy định tại điểm b khoản 1 Điều 5 dự thảo Nghị quyết sẽ làm vô hiệu hóa, mất ý nghĩa của các quy hoạch và có thể dẫn đến các tác động tiêu cực về sau, do đó Ủy ban Kinh tế đề nghị rà soát, chỉnh sửa cho phù hợp hơn.
Theo quy hoạch giao thông vận tải Thủ đô Hà Nội đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050 được duyệt, hệ thống đường sắt đô thị có tổng chiều dài khoảng 413 km, đến năm 2035 đầu tư hoàn thành toàn bộ với chiều dài thực tế là 410,8 km (21,5 km đã đưa vào khai thác; 397,8 km chưa đầu tư). Theo quy hoạch chung xây dựng Thủ đô đến năm 2040, tầm nhìn đến năm 2065 (chưa được duyệt), đến năm 2035 dự kiến hoàn thành khoảng 410,8 km; đến năm 2045 hoàn thành thêm khoảng 200,7 km.
Còn theo quy hoạch phát triển giao thông vận tải TP.HCM đến năm 2020, tầm nhìn sau năm 2020 được duyệt, hệ thống đường sắt đô thị có tổng chiều dài 173 km, đến năm 2035 đầu tư hoàn thành toàn bộ với chiều dài thực tế là 183 km. Theo quy hoạch chung xây dựng TPHCM đến năm 2040, tầm nhìn đến năm 2060 (chưa được duyệt), đến năm 2035 hoàn thành khoảng 183 km; đến năm 2045 hoàn thành thêm khoảng 168 km; đến năm 2060 hoàn thành thêm khoảng 159 km.
Sau khi hoàn thành, mạng lưới đường sắt đô thị tại Hà Nội có khả năng đảm nhận 35-40% thị phần; TPHCM đảm nhận 30-40% thị phần vận tải hành khách công cộng. Mặt khác, nếu được chuyển giao công nghệ thích hợp, Việt Nam có khả năng phát triển công nghiệp đường sắt, việc phát triển đường sắt đô thị là một trong các tiền đề để phát triển công nghiệp đường sắt, công nghiệp hỗ trợ.
Vui lòng nhập nội dung bình luận.