Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận
Khi nhấn đăng nhập đồng nghĩa với việc bạn đã đồng ý với điều khoản sử dụng của báo Dân Việt
Đăng nhập
Họ và tên
Mật khẩu
Mã xác nhận
Đăng ký
Xin chào, !
Bạn đã đăng nhập với email:
Đăng xuất
Giá thép giao kỳ hạn tháng 10/2023 trên Sàn giao dịch Thượng Hải tăng 4 nhân dân tệ, lên mức 4,130 nhân dân tệ/tấn.
Hiệp hội Thép Việt Nam nhận định ngành thép đã trải qua năm 2022 đầy khó khăn, sản xuất thép thành phẩm các loại đạt 29,3 triệu tấn, giảm 12% và bán hàng thép các loại đạt 27,3 triệu tấn, giảm 7% so với năm 2021.
Theo Hiệp hội Thép Việt Nam (VSA) trong tháng 12/2022, sản xuất và bán hàng thép tăng lần lượt 17% và 11% so với tháng trước, nhưng giảm lần lượt 21% và 14% so với cùng kỳ năm 2021.
Lũy kế quý IV/2022, sản xuất và bán hàng các sản phẩm thép đều có mức tăng trưởng âm so với các quý trước, tuy nhiên lượng xuất khẩu quý IV tăng tốt hơn.
Cụ thể, sản xuất thép thành phẩm quý IV/2022 đạt 6 triệu tấn, giảm 30,5% so với cùng kỳ năm 2021. Bán hàng thép thành phẩm trong quý này đạt gần 6 triệu tấn, giảm 20% so với cùng kỳ năm 2021, trong đó xuất khẩu đạt 1,4 triệu tấn, giảm 29% so với cùng kỳ năm ngoái.
Tính chung cả năm 2022, sản xuất thép thành phẩm các loại đạt 29,3 triệu tấn, giảm 12% và bán hàng thép các loại đạt 27,3 triệu tấn, giảm 7% so với năm 2021, trong đó xuất khẩu thép thành phẩm các loại của các doanh nghiệp thành viên của VSA giảm hơn 20% so với năm 2021.
“Năm 2022, trong bối cảnh nền kinh tế trong nước ghi nhận điểm sáng với mức tăng trưởng khá cao hơn 8%, nhưng đối với ngành thép lại là một năm đầy khó khăn”, VSA nhận định.
Trong báo cáo chiến lược ngành thép 2023, Công ty Cổ phần Chứng khoán Rồng Việt (VDSC) cũng nhận định ngành thép đã trải qua năm 2022 khó khăn dồn dập ở cả thị trường xuất khẩu và nội địa. Cơn bĩ cực với ngành thép sẽ không sớm kết thúc khi ảnh hưởng tiêu cực của các xung đột địa chính trị, suy thoái kinh tế sau Covid và lạm phát khó hạ nhiệt nhanh chóng trong năm 2023.
VDSC nhận định tiêu thụ thép trong nước năm 2023 có thể được hỗ trợ bởi đầu tư công. Cụ thể, kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025, tổng vốn kế hoạch đầu tư công giai đoạn 2021-2025 đạt 2,8 triệu tỷ đồng, tăng 43,5% so với kế hoạch giai đoạn 2016-2020. Giải ngân đầu tư công đã tăng tốc dần trong quý IV/2022.
Các dự án giao thông chiếm tỷ trọng lớn khi tổng chi đạt 507.400 tỷ đồng, chiếm 47% kế hoạch phân bổ vốn đầu tư trung hạn nguồn ngân sách trung ương. Do đó, các nhà sản xuất thép xây dựng như Hòa Phát, Formosa, Thép Pomina… có thể hưởng lợi.
Còn về mảng xuất khẩu, VDSC cho rằng lạm phát tăng nhanh và làn sóng thắt chặt chính sách tiền tệ toàn cầu làm giảm nhu cầu đầu tư và tiêu dùng, kéo theo tiêu thụ thép yếu dần từ quý III/2022. Xuất khẩu thép sẽ tiếp tục trầm lắng trong các quý I, II và đến giữa năm 2023 mới phục hồi khi áp lực tăng lãi suất dịu bớt trên toàn cầu.
Ngày 6/1, thị trường thép trong nước có sự điều chỉnh giá bán với dòng thép cuộn CB240. Trong lần điều chỉnh này, thép Hòa Phát tăng giá mạnh sản phẩm thép cuộn CB240 200 đồng, lên mức 14.940 đồng/kg tại thị trường miền Bắc. Thép Việt Đức, dòng thép cuộn CB240 tăng 200 đồng, ở mức 15.050 đồng/kg tại thị trường miền Trung. Thép VAS, dòng thép cuộn CB240 tăng giá lần thứ 3 trong vòng 30 ngày, qua ngưỡng 14.870 đồng/kg tại thị trường miền Nam.
Sau khoảng thời gian ổn định, các doanh nghiệp thép lại rục rịch điều chỉnh, đây là đợt điều chỉnh giá đầu tiên trong năm 2023. Cuối năm 2022, nhiều thương hiệu đã điều chỉnh giá vài lần.
Thị trường thép đang chờ đợi những tín hiệu tích cực trong đầu năm 2023 bởi theo thông lệ đây là giai đoạn nhu cầu thép tăng lên khi các công trình xây dựng gấp rút đẩy mạnh tiến độ.
Hiệp hội thép Việt Nam (VSA) cho rằng, nhu cầu thép năm nay có thể tăng mạnh hay không vẫn còn phụ thuộc nhiều yếu tố, nhất là khi tồn kho thép của các doanh nghiệp trong nước vẫn còn cao, các nhà sản xuất cần thời gian để xử lý.
Hiệp hội Thép Việt Nam nhận định ngành thép đã trải qua năm 2022 đầy khó khăn, sản xuất thép thành phẩm các loại đạt 29,3 triệu tấn, giảm 12% và bán hàng thép các loại đạt 27,3 triệu tấn, giảm 7% so với năm 2021.
Theo SteelOnline.vn, thương hiệu thép Hòa Phát, với thép cuộn CB240 tăng mạnh giá bán 200 đồng, lên mức 14.940 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 15.020 đồng/kg.
Thép Việt Ý cũng tăng 200 đồng với dòng thép cuộn CB240 lên mức 14.900 đồng/kg; còn thép D10 CB300 vẫn bình ổn, có giá 15.000 đồng/kg.
Thép Việt Sing, với thép cuộn CB240 cũng tăng 200 đồng, lên mức 14.820 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 14.920 đồng/kg.
Thép VAS, dòng điện cuộn CB240 ở mức 14.870 đồng/kg - tăng 200 đồng; dòng thép thanh sơn D10 CB300 có giá 14.870 đồng/kg.
Tương tự, thép Việt Nhật, với dòng thép cuộn CB240 thay đổi từ mức 14.670 đồng/kg lên 14.870 đồng/kg; thép thanh sơn D10 CB300 ở mức 14.870 đồng/kg.
Thương hiệu thép Việt Đức, với thép cuộn CB240 tăng 210 đồng, lên mức 14.700 đồng/kg; với thép thanh vằn D10 CB300 có giá 14.900 đồng/kg.
Thép Hòa Phát, với dòng thép cuộn CB240 ở mức 14.860 đồng/kg - tăng 200 đồng; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 15.010 đồng/kg.
Thép Pomina tiếp tục ổn định từ ngày 24/12 đến nay, hiện dòng thép cuộn CB240 ở mức 16.120 đồng/kg; dòng thép thanh sơn D10 CB300 có giá 16.320 đồng/kg.
Thép Việt Đức, dòng thép cuộn CB240 tăng 200 đồng, ở mức 15.050 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 15.250 đồng/kg.
Thép VAS, với thép cuộn CB240 tăng 200 đồng, chạm mức 14.870 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 14.870 đồng/kg.
Thép Hòa Phát, dây chuyền thép cuộn CB240 cũng tăng 200 đồng, hiện ở mức 14.910 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 14.760 đồng/kg.
Thép Pomina, với dòng thép cuộn CB240 ở mức 16.060 đồng/kg; thép thanh sơn D10 CB300 ở mức 16.060 đồng/kg.
Thép VAS, dòng thép cuộn CB240 tăng giá lần thứ 3 trong vòng 30 ngày qua ngưỡng 14.870 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 14.870 đồng/kg.
Thép Tung Ho, với thép cuộn CB240 tăng giá 15.070 đồng/kg - tăng 200 đồng; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 14.870 đồng/kg.
Vui lòng nhập nội dung bình luận.