Cặp "bài tẩy" mới của HLV Kim Sang-sik tại ĐT Việt Nam gồm những ai?
ĐT Việt Nam vừa chào đón 2 tân binh sinh năm 2000, là Khổng Minh Gia Bảo và Nguyễn Trần Việt Cường
Báo điện tử của Trung ương Hội Nông dân Việt Nam
Tổng biên tập: Nguyễn Văn Hoài
Phó Tổng Biên tập: Phan Huy Hà (Thường trực), Lưu Phan, Đỗ Thị
Sâm, Hoàng Sơn
Giấy phép hoạt động báo điện tử số 115/GP-BTTTT do Bộ TT-TT cấp ngày 01/3/2022 và giấy phép sửa đổi, bổ sung số 55/GP-BVHTTDL do Bộ VHTTDL cấp ngày 11/6/2025
Bản quyền thuộc về Báo điện tử Dân Việt.
Mọi hình thức sao chép lại thông tin, hình ảnh phải được sự đồng ý bằng văn bản .
Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận
Xin chào, !
Bạn đã đăng nhập với email:
Đăng xuất

Những ngày cuối tháng 9, dải đất miền Trung Nghệ An, Hà Tĩnh phải đối mặt với thiên tai – cơn bão số 10 trong năm nay. Cơn bão Bualoi đã gây ra những thiệt hại vô cùng nghiêm trọng cả về người và tài sản với quê hương của điệu ví, dặm nói riêng cũng như nhiều tỉnh thành khác ở miền Bắc. Nhưng điều này với người dân xứ Nghệ, cũng không có gì xa lạ.
Bởi xứ Nghệ - một vùng đất rộng lớn ở Bắc miền Trung, nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa có bờ biển dài gần 90 km, trước tới nay là nơi phải thường xuyên đối mặt với các loại thiên tai, địch họa... Đến mức thành thói quen, thành sự nhẫn nhịn chịu đựng.
Và có lẽ, cái sự gàn, đôi khi đến mức cực đoan trong tính cách của người xứ Nghệ được hình thành nên một phần chính từ cái gian khổ, chịu đựng này. Cái gàn ấy, khác với thông thường, lại được chuyển hóa thành một cốt cách kiên cường, tinh thần khẳng khái, sự chịu thương chịu khó và khát vọng vươn lên mãnh liệt. Vươn lên để khẳng định với đời, rằng “người xứ Nghệ là thế đó”.
Trên mảnh đất khắc nghiệt đầy nắng gió, mưa bão lũ lụt đó, con người nơi đây vừa mộc mạc, vừa kiêu hùng, vừa khắc khổ lại phóng khoáng, dù nghèo khó gian lao nhưng lại vô cùng ham học hỏi. Để rồi từ đó, mảnh đất đã sản sinh những danh nhân, anh hùng, trí thức lớn, làm rạng danh đất nước.
Sau bài "Nhà văn, nhà báo Xuân Ba với cuộc trò chuyện về Thanh Hóa, miền 'địa linh nhân kiệt' và giải mã 'nghịch lý xứ Thanh'" đã đăng ở kỳ trước, trên Dân Việt Trò Chuyện kỳ này, mời bạn đọc "Giải mã bí ẩn tính cách người Nghệ: Gàn mà khẳng khái, khắc khổ mà phóng khoáng". Dân Việt đã có cuộc trò chuyện với Nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Nguyễn Hùng Vĩ, nguyên giảng viên khoa Văn học, Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn (ĐHQG Hà Nội), cũng là một người con xứ Nghệ với “chất gàn” đặc trưng.
Và ở những kỳ tiếp theo, mời bạn đọc cùng Dân Việt tiếp tục tìm về những vùng quê “địa linh nhân kiệt” khác, mà tên tuối của nó đã trở thành niềm tự hào của không chỉ sinh ra trên mảnh đất đó, như phố Hiến (Hưng Yên), "vùng quê hay cãi" Quảng Nam hay câu chuyện về "Hải Phòng không lòng vòng"...

Có lẽ Hoàng Giáp Bùi Dương Lịch là người sớm nhất tổng kết về tính cách người xứ Nghệ. Cách đây hơn 200 năm ông viết cuốn “Nghệ An Ký” (được ông hoàn thành khi đang giữ chức Đốc học Nghệ An- từ 1805-1813), trong đó ông nhận xét: “Nghệ An đất xấu dân nghèo thua xa tứ trấn, nhưng phong tục sở dĩ thuần hậu chính vì như thế. Người các trấn thường cười là hủ lậu, người dân không chịu điều nhỏ mọn, tâm ở yên, bởi sự tiết kiệm, người các trấn khinh là keo kiệt”. Với vai trò là một nhà nghien cứu, ông nhìn nhận như thế nào về nhận xét này?
- Bùi Dương Lịch tổng kết rất đúng, người xứ Nghệ: Kiên cường, tiết kiệm, tằn tiện đến keo kiệt. Những tính cách ấy tiếp tục được những người con của xứ Nghệ phân tích kỹ hơn.
GS Vũ Ngọc Khánh thì viết: “Người Nghệ do hoàn cảnh thiên nhiên khắc nghiệt, đời sống kinh tế nghèo khổ nên trong cuộc sống luôn thể hiện phẩm chất kiên cường, chấp nhận và khắc phục hoàn cảnh với ý chí và quyết tâm cao, thể hiện một tinh thần vươn lên không biết mệt mỏi. Họ chịu khó học hành, ham học hỏi, hiếu học, cầu học và có ý chí thành danh bằng con đường học vấn”.
Trong khi đó, GS Phong Lê, một người con khác của xứ Nghệ, nguyên Viện trưởng Viện Văn học, cho rằng: “Anh đồ Nghệ với hình ảnh con cá gỗ cũng là biểu hiện cho tinh thần hiếu học, cũng là biểu hiện của tính gàn. Tính gàn không phải là một cái gì đó xấu xa, nó là một cá tính đặc trưng của người Nghệ, đó là cái ngông của kẻ sĩ, của người có học. Người Nghệ ngông, gàn nhưng lại được nhiều người quý mến vì họ cũng là người sống thẳng thắn, khẳng khái và nhiều khi cũng hào phóng, không hay tính toán lợi ích cho bản thân”.

Khi nói về tính cách người Nghệ, ít nhiều các học giả trên đều có chung nhận xét là do “thiên chí” và “địa chí” tạo nên. Ông có thể phân tích kỹ hơn về vấn đề này không?
- Tôi làm văn hóa dân gian, nên xin nói theo lối dân gian. Dân gian vừa đúng vừa sai, vừa là chân lý vừa chỉ là ý kiến, nhưng lại dễ được tôn trọng. Xứ Nghệ có “thiên chí” (thời tiết, khí hậu) rất khắc nghiệt, “địa chí” (đất đai) khô cằn, sỏi đá là chính. “... miền trung đất khô cằn/ Mùa đông trời buốt giá, mùa hạ nắng cháу da/ Ruộng đồng khô nứt nẻ, mưa đi không kịp về”, như lời ca khúc “Thương về xứ Nghệ” của Nguyễn Tất Tùng.
Không giống như sông ngòi trung du Bắc Bộ và Nam Bộ chứa nặng phù sa và kéo theo nhiều chủng loại hải sản, sông ngòi xứ Nghệ trong vắt. Chuyện rằng có một doanh nhân người Nghệ thành đạt ở phía Bắc muốn đầu tư về quê hương, bao thầu cả mấy chục mẫu sông hồ để nuôi cá. Bà con nông dân xứ Nghẹ sướng rơn, nói không làm mà có ăn rồi (cho thuê đất ruộng nuôi cá). Ba năm sau đại gia kia thất bại phải bán xới khỏi quê hương.
“Trời mô xanh bằng trời Can Lộc/ Nước mô xanh bằng dòng nước sông La”- người ngoài nghe câu hát ấy của Doãn Nho chỉ thấy cảnh đẹp: Trời trong xanh, nước trong xanh, chứ người Nghệ thì ngậm ngùi: Nước trong và sạch đến mức cua cá không sống nổi.

Như ông vừa nói, chúng ta đều thấy xứ Nghệ: “Thiên” không “thời”, “địa” không “lợi”, còn “nhân” thì sao, hay nói một cách ngắn gọn, theo nghiên cứu của ông, người Nghệ có những đặc tính gì?
- Theo tổng kết từ folklore, tôi nghiên cứu và rút ra, người Nghệ có ba đặc tính nổi bật: Gàn, “cá gỗ” và giỏi chịu đựng.
Ông có thể lý giải cụ thể hơn không?
- Thứ nhất là tính gàn. Có người hiểu gàn theo nghĩa tiêu cực, cố chấp; nhưng theo tôi, đó là sự khẳng khái, dám phản kháng trước cái sai. Lịch sử xứ Nghệ là lịch sử của những cộng đồng trung thành với thiết chế cũ, nhiều lần dạt về đây sau biến động triều đình: Từ Lý sang Trần, Trần sang Hồ, rồi Lê- Mạc. Họ mang theo tinh thần bất phục, tạo nên một truyền thống phản kháng mạnh mẽ.
Các cuộc chiến tranh qua nhiều thời kỳ cũng lấy Nghệ làm hậu cứ, càng hun đúc thêm phẩm chất ấy. Vì vậy, người Nghệ khi đi xa, thấy bất bình thường phản ứng trực diện, quyết liệt. Tuy nhiên, tính gàn này lại khiến họ khó khăn hơn trong kinh doanh, bởi họ đặt công lý lên trên lợi ích.
Thứ hai là câu chuyện “con cá gỗ”, vốn từ tích xưa, thường bị hiểu là biểu tượng của sự tằn tiện, thậm chí bủn xỉn. Nhưng tôi cho rằng đó bắt nguồn từ thói quen chịu khổ, tiết chế do thiên nhiên khắc nghiệt.
Thực tế, so với người Bắc Bộ, người Nghệ không hẳn tằn tiện. Họ thường nghĩ đến cái lớn hơn, sống vì cộng đồng nhiều hơn cho bản thân. Khi đi làm ăn xa, họ hay nhường quyền lợi ở quê cho anh em, ít tranh giành thừa kế. Có lẽ vì họ quen tư duy: “Thêm một chút không giàu, bớt một chút cũng không nghèo”, bởi bão lũ có thể cuốn trôi mọi tích lũy.
Thứ ba, chính từ khắc nghiệt thiên nhiên mà người Nghệ giỏi chịu khổ. Người ngoài nhìn vào thấy khắc khổ thì gán cho sự keo kiệt, nhưng trong thực chất, họ lại phóng khoáng trong tình cảm, rộng rãi trong chia sẻ lợi ích cộng đồng.
Tóm lại, xứ Nghệ tạo ra một kiểu người đặc biệt: gàn mà khẳng khái, khắc khổ mà phóng khoáng, ít lo tính toán cá nhân mà nặng nghĩa cộng đồng. Đó là sản phẩm của khí hậu, địa hình, lịch sử và biết bao cuộc bể dâu đã hun đúc nên.
Người Việt nói chung đều giàu lòng dũng cảm, can đảm, cần cù. Nhưng với người Nghệ, những phẩm chất ấy dường như nổi bật đến mức “thiên tả”. Học giả Đặng Thai Mai, một người con của Thanh Chương, đã từng khái quát rất độc đáo về tính cách xứ Nghệ: “Can đảm đến sơ xuất, cần cù đến liều lĩnh, kiên quyết đến khô khan và tằn tiện đến cá gỗ”. Ông nhìn nhận như thế nào về nhận xét này?
- Nhận xét của học giả Đặng Thai Mai vừa giàu hình ảnh, vừa có tính khái quát cao. Nó không chỉ nói về tính cách cá nhân mà còn là tấm gương phản chiếu bối cảnh địa - văn hóa của cả vùng đất. Như đã nói ở trên, Nghệ An- Hà Tĩnh là vùng đất khắc nghiệt, thiên nhiên không mấy ưu đãi. Chính hoàn cảnh ấy đã rèn giũa con người nơi đây thành “chất thép” đặc biệt, khác biệt với nhiều vùng miền khác.
“Can đảm đến sơ xuất” cho thấy người Nghệ có sự xông pha, dám dấn thân, dám đối mặt thử thách mà đôi khi quên đi sự tính toán thiệt hơn. Trong lịch sử, bao anh hùng đất Nghệ đã đứng lên với khí phách ấy, từ Phan Bội Châu, Nguyễn Xuân Ôn, đến những chiến sĩ cách mạng đầu thế kỷ XX. Họ chọn con đường gian nguy, thậm chí chấp nhận cái chết, để mở lối cho dân tộc.
“Cần cù đến liều lĩnh” phản ánh đức tính lao động không mệt mỏi, kiên nhẫn, chấp nhận khó khăn để mưu sinh. Người Nghệ có thể làm việc quần quật trên mảnh đất nghèo, hoặc tha hương nơi xứ người, nhưng ở đâu họ cũng giữ tinh thần chịu thương chịu khó, lấy lao động làm giá trị cốt lõi.
“Kiên quyết đến khô khan” đôi khi được nhìn như sự cứng rắn quá mức, thiếu mềm mại. Nhưng chính sự quyết liệt này đã làm nên bản lĩnh không dễ khuất phục, giúp người Nghệ bền bỉ theo đuổi lý tưởng, trung thành với niềm tin đã chọn.
“Tằn tiện đến cá gỗ” thì vừa là nét đẹp, vừa là hệ quả của nghèo khó. Tiết kiệm, chắt chiu từng đồng, từng hạt gạo, không phải vì keo kiệt, mà vì ý thức sâu sắc về giá trị của lao động và sự thiếu thốn muôn đời của quê hương.
Nhìn chung, lời nhận xét của Đặng Thai Mai tuy khái quát đến cực đoan, nhưng lại rất đúng với “hồn cốt” người xứ Nghệ.


Trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam, hình tượng “cá gỗ” là một minh chứng cho sự tằn tiện, với hàng trăm dị bản khác nhau ở nhiều vùng đất. Tuy nhiên, khi nhắc đến “cá gỗ” người ta lại mặc định gắn với xứ Nghệ. Ông lý giải thế nào về hiện tượng “cá gỗ” trở thành biểu tượng gắn liền với người Nghệ?
- Trước tiên hãy nghe một dị bản hay nhất về “cá gỗ” của người Nghệ: “Cứ đến bữa ăn thì ông bố treo một con cá gỗ trước cửa. Theo quy định, khi và một miếng cơm, mỗi người chỉ được nhìn con cá gỗ một lần. Bỗng nhiên thằng anh mách bố: Bố ơi thằng em nó nhìn con cá gỗ những hai lần”. Đấy “cá gỗ” của người Nghệ bao giờ cũng “cực đoan” hơn những nơi khác.
Lý giải điều này, trước hết phải nhìn vào tính cách đặc trưng của người Nghệ. Như đã phân tích ở trên, xứ Nghệ là vùng đất nghèo, thiên nhiên khắc nghiệt, khí hậu khô hạn, đất đai cằn cỗi. Hoàn cảnh ấy hình thành nên phẩm chất “ăn chắc mặc bền”, biết chắt chiu từng đồng, từng bát gạo. Khi một hình tượng văn học dân gian phản ánh thói quen này, nó rất dễ được gắn cho xứ Nghệ như một “dấu hiệu nhận diện tập thể”.
Thứ hai, người Nghệ lại có truyền thống hiếu học, thích tự trào, biết cười chính mình. Bởi thế, chuyện “cá gỗ” không chỉ bị gán ghép từ bên ngoài mà dần được chính người Nghệ chấp nhận, thậm chí biến thành một phần bản sắc văn hóa. Từ sự mặc định đó, “cá gỗ” trở thành biểu tượng đặc trưng, dễ nhớ, dễ gợi nhắc mỗi khi nói về tính cách xứ Nghệ.

Thưa ông, như ông chia sẻ ở trên, trong 3 tính cách chính của người Nghệ, ông đặt “tính gàn” lên hàng đầu. Vì sao ông lại coi đó như một phẩm chất đặc trưng nhất của người xứ Nghệ?
- “Gàn” ở đây không đơn thuần là sự bướng bỉnh hay ngang ngạnh, mà là một lối tư duy rất riêng, có phần nghịch dị, khác người, nhiều khi khiến kẻ ngoài nhìn vào thì cười cợt, nhưng ngẫm kỹ lại thì đó chính là một sức mạnh tinh thần đặc biệt. Người Nghệ thường không chịu đi theo lối mòn. Họ có thể bảo thủ, khăng khăng giữ ý kiến, nhưng chính sự “khăng khăng” ấy lại giúp họ giữ trọn cá tính, không bị hòa tan.
Hãy nghe một giai thoại kiểu folklore mà người Nghệ hay kể để minh họa: Có một ông cụ ra suối tắm chẳng may chết đuối. Cả làng hô hoán chạy đi tìm, ai cũng men theo dòng nước chảy về hạ lưu, vì lẽ thường “nước xuôi, xác cũng xuôi”. Nhưng người vợ ông cụ lại vừa khóc vừa chạy ngược dòng. Dân làng trố mắt: “Đi tìm xác thì phải đi xuôi, bà ngược làm gì?”. Bà cụ nghẹn ngào mà dứt khoát: “Cả đời ông ấy gàn dở, việc gì thiên hạ làm xuôi thì ông ấy làm ngược. Giờ chết rồi, chắc cái xác cũng phải trôi ngược thôi”.
Câu chuyện nghe thì khôi hài, nhưng nó phản ánh một phần bản chất người Nghệ. Họ có thể “gàn” đến mức bất chấp quy ước thông thường, tin vào lý lẽ của riêng mình. Nhưng chính cái “ngược dòng” ấy lại tạo ra bản lĩnh kiên cường, dám bứt phá, dám nghĩ và dám làm. Cái gàn ấy, khi gặp thời thế, sẽ trở thành sự kiên định, không ngại gian khổ, thậm chí dám “cãi cả số phận” để mở ra con đường mới.
Văn chương xứ Nghệ cứng cỏi, ít bóng bẩy?
Trong “Nghệ An ký” mà chúng ta đã nhắc tới ở đầu cuộc trò chuyện, học giả Bùi Dương Lịch có đưa ra một tổng kết khá thẳng thắn về khí chất của văn sĩ xứ Nghệ. Ông viết: “Văn chương người Nghệ phần nhiều mạnh mà cứng cỏi, ít bóng bẩy. Trong số Thập nhị bát tú (28 ngôi sao) của hội Tao Đàn thời Hồng Đức, xứ Nghệ không có một người nào. Mặc cho thời bấy giờ có Tham chính Phạm Thúc Cẩn người huyện La Sơn và Thượng thư Đặng Minh Bích người huyện Nam Đường đều có tiếng thơ hay mà không được dự, là bởi thế”.
Nói cách khác, ông cho rằng văn chương đất Nghệ thiên về chất thực, không nghiêng về vẻ hào hoa, uyển chuyển nên không được trọng dụng trong một hội Tao đàn vốn coi trọng tính bay bướm, trau chuốt.
Thưa ông, liệu nhận xét này của học giả Bùi Dương Lịch có phải là một sự bất công với thơ ca xứ Nghệ hay không?
- Tôi cho rằng, nhận xét của Bùi Dương Lịch là hoàn toàn xác đáng, thậm chí còn đúng cho đến tận hôm nay. Không cần phải quan sát quá kỹ lưỡng, ta cũng có thể dễ dàng nhận ra rằng thơ ca xứ Nghệ thường thiên về tả thực, trực diện, ít khi trau chuốt, bóng bẩy. Điều này không chỉ thể hiện trong thơ văn bác học, mà còn in đậm trong ca từ của dân ca ví, dặm, vốn là linh hồn văn hóa của vùng đất này.
Hãy thử lắng nghe những câu hát mộc mạc: “Nhút mặn, cà chua; nhút mặn, gừng cay; con đò vẫn nguyên, dòng sông (Lam, La) còn đó...”. Đó là cách diễn đạt giản dị, gần như không qua nhiều lớp ẩn dụ, so sánh.
Trong khi đó, nếu đặt cạnh dân ca quan họ của xứ Kinh Bắc, chúng ta thấy sự khác biệt rất rõ rệt. Quan họ Bắc Ninh đạt đến độ trau chuốt, uyển chuyển về cả nhạc điệu lẫn hình ảnh, có thể coi là một đỉnh cao khó vượt qua.
Còn ví, dặm Nghệ Tĩnh lại như dòng suối ngọt lành, không cầu kỳ nhưng giàu sức sống, để lại dấu ấn bởi sự gần gũi và chân thực. Chính vì thế, nhạc sĩ có thể sáng tạo, phát triển thêm rất nhiều từ nền tảng ví, dặm, bởi chất liệu ấy còn “thô”, còn rộng đường khai phá. Ngược lại, quan họ đã đạt đến độ tinh luyện, “làm cao” hơn cũng khó.
Kinh nghiệm đi điền dã văn hóa dân gian của tôi cũng cho thấy điều này. Có lần tôi thử khảo sát ở nhiều quán karaoke để xem thị hiếu người hát chọn nhạc gì. Thật bất ngờ, có đến 60–70% chọn hát dân ca xứ Nghệ. Việc này cho thấy hai điều: Thứ nhất, người xứ Nghệ và người gốc Nghệ có mặt khắp nơi, giữ chặt bản sắc qua âm nhạc; thứ hai, những làn điệu ví, dặm dễ thuộc, dễ hát, đi thẳng vào tâm hồn người bình dân. Trong khi đó, thử tưởng tượng lên karaoke mà chọn hát nhạc của Phó Đức Phương xem – ca từ uyển chuyển, nhạc điệu phức tạp – thì mấy ai hát nổi?
Văn chương xứ Nghệ cũng vậy. Nếu tìm một nhà thơ gần đây có thể vươn tới mức độ uyển chuyển, “lấp lánh” trong nghệ thuật ngôn từ, có lẽ chỉ có Vương Trọng. Nguyễn Trọng Tạo nữa, nhưng anh Tạo thì chưa đạt đến đỉnh cao. “Ngoài thềm rơi cái lá đa/ Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng” (Trần Đăng Khoa). Một cậu bé mà viết được như thế! Thần, chứ không phải người nữa! Văn chương xứ Nghệ làm gì có được những câu như thế!
Nhìn tổng thể, văn học Nghệ chưa từng sản sinh một tác giả nào có tầm vóc sánh ngang với Nguyễn Gia Thiều của trấn Kinh Bắc, người đã để lại tuyệt phẩm “Cung oán ngâm khúc”. Văn chương đất Nghệ mãi vẫn giữ một bản sắc: mộc mạc, trực diện, thiên về sức mạnh hơn là vẻ hào hoa.
Đó không phải là bất công, mà là sự thật của khí chất, căn cốt vùng đất, và cũng chính là giá trị riêng biệt mà người Nghệ đã, đang và sẽ mãi đóng góp vào nền văn học dân tộc.

Vậy còn Nguyễn Du thì sao? Chỉ riêng với “Truyện Kiều”, Nguyễn Du đã được thừa nhận như một đỉnh cao bất hủ của văn học Việt Nam từ trước đến nay. Có thể xem ông là đại diện cho văn chương xứ Nghệ không?
- Nguyễn Du quả thực sinh ra và lớn lên tại làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh, một vùng đất giàu truyền thống hiếu học và văn hóa. Tuy nhiên, xét về gốc gác gia tộc, ông lại là sự kết tinh của nhiều dòng họ danh giá ở miền Bắc. Tổ tiên nội của Nguyễn Du vốn quê ở làng Tảo Dương, quê ngoại ở làng Canh Hoạch, huyện Thanh Oai, trấn Sơn Nam (nay thuộc Hà Nội). Đây là vùng đất nổi tiếng với câu chuyện “Trạng Cậu, Trạng Cháu”, chỉ hai vị Trạng nguyên Nguyễn Đức Lượng và Nguyễn Thiến.
Về sau, Nam Dương công Nguyễn Doãn Miện (tức Nguyễn Nhiệm, cháu của Trạng nguyên Nguyễn Thiến) di cư vào Hà Tĩnh, lập nghiệp ở Tiên Điền, từ đó hình thành dòng họ Nguyễn Tiên Điền lừng danh.
Cha của Nguyễn Du là Nguyễn Nghiễm, một đại thần triều Lê, còn mẹ ông là trắc thất (vợ lẽ - NV), quê ở làng Hoa Thiều, xã Minh Đạo, huyện Tiên Du, xứ Kinh Bắc (nay thuộc Bắc Ninh). Như vậy, Nguyễn Du không chỉ mang dòng máu xứ Nghệ mà còn thừa hưởng di sản tinh hoa từ đất Bắc, đặc biệt là truyền thống văn hiến lâu đời của vùng Kinh Bắc.
Chính sự giao thoa ấy, một bên là khí chất cứng cỏi, mộc mạc của Nghệ Tĩnh, một bên là sự uyển chuyển, tinh tế của văn hóa Bắc Hà, đã hun đúc nên thiên tài Nguyễn Du. “Truyện Kiều” vì vậy vừa thấm đẫm nỗi niềm bi ai, trắc ẩn rất “Nghệ”, vừa đạt đến độ uyển chuyển, tinh luyện về ngôn từ mà chỉ đất Bắc mới có thể trao truyền.
Có thể nói, Nguyễn Du là một trường hợp đặc biệt: Ông không hoàn toàn thuộc riêng một vùng văn hóa nào, mà là sự hội tụ tinh hoa của nhiều miền, để rồi tỏa sáng thành đỉnh cao của văn học dân tộc.
Khi nhắc đến Nguyễn Du, ta khó có thể bỏ qua nữ sĩ Hồ Xuân Hương, người được Xuân Diệu tôn vinh là “Bà chúa thơ Nôm”. Vậy, sự xuất hiện của Hồ Xuân Hương có phải là một hiện tượng độc đáo của văn chương xứ Nghệ, hay còn có cách lý giải nào khác?
- Chúng tôi quan niệm rằng Hồ Xuân Hương, trong tiến trình văn học dân tộc, không chỉ đơn thuần là một cá nhân, một tác giả riêng lẻ, mà còn có thể được hiểu như một “hiện tượng văn hóa- văn chương” đặc thù. Nói cách khác, thay vì nhìn nhận bà chỉ với tư cách một nữ sĩ tài hoa đến từ Nghệ An, cần đặt hiện tượng Hồ Xuân Hương trong mối quan hệ rộng lớn hơn: Sự kết tinh, vun đắp của nhiều tầng lớp, nhiều nguồn mạch sáng tạo, và cả tâm thức dân gian.
Trong lịch sử văn học, đã có những hiện tượng tương tự, chẳng hạn như dòng thơ “Bút Tre” ở Bắc Bộ. Đó không hẳn là sáng tác của một cá nhân, mà là sản phẩm chung của nhiều người, rồi được dân gian lưu truyền, gọt giũa, bổ sung, khiến nó mang sắc thái tập thể.
Ở Hồ Xuân Hương, điều đặc biệt là bà gắn tên tuổi với một phong cách thơ ca độc đáo, vừa tài tử, tinh tế, vừa dân gian, trào lộng. Chính phong cách ấy đã khiến nhiều bài thơ được truyền tụng, thêm thắt, thậm chí có thể có sự đồng sáng tác không chính thức trong cộng đồng người đọc- người thuộc- người chép.
Do đó, khi đặt câu hỏi “Hồ Xuân Hương là ai?”, có thể thấy bà là một cá tính lớn, nhưng đồng thời cũng là biểu tượng, là hiện tượng. Trong hiện tượng ấy, có sự sáng tạo cá nhân của một nữ sĩ có tài và có cá tính mạnh mẽ, nhưng cũng có sự phản ánh của tâm thức cộng đồng: Khát vọng giải phóng nữ quyền, lối tư duy dân gian dí dỏm, tinh thần phản kháng trước lễ giáo phong kiến. Nói cách khác, thơ Hồ Xuân Hương vừa là tiếng nói của một người, vừa là bản hợp xướng của nhiều người.

Có một điều cần phải nhấn mạnh rằng, xứ Nghệ là nơi sản sinh ra nhiều nhà cách mạng, tướng lĩnh, anh hùng quân sự kiệt xuất. Điều gì đã tạo nên “mạch ngầm” đặc biệt ấy, nếu không phải từ chính tính cách của con người Nghệ?
- Như tôi đã nhiều lần nhấn mạnh ở trên cái khắc nghiệt của vùng đất nơi đây đã rèn cho người dân Nghệ một ý chí cứng cỏi, bền gan. Họ quen với gian khổ, coi thử thách như lẽ thường, trọng nghĩa, trọng tình, sống thẳng ngay, trung hiếu với quê hương, đất nước. Chính sự rèn luyện vô hình ấy là nền tảng để từ đời này qua đời khác, người Nghệ luôn sẵn sàng xông pha nơi đầu sóng ngọn gió.
Thời kỳ phong kiến - tiền hiện đại có những Mai Thúc Loan, Nguyễn Xí. Thời kỳ cận đại có Phan Bội Châu, rồi Lê Hồng Phong (Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương), Nguyễn Thị Minh Khai, Hồ Tùng Mậu. Thời chống Pháp có Phùng Chí Kiên, Lê Thiết Hùng – một trong những vị tướng đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam.
Thời kỳ kháng chiến chống Mỹ có Đại tướng Chu Huy Mân, Thượng tướng Trần Văn Quang, Trung tướng Hoàng Đan, Trung tướng Nguyễn Quốc Thước... và, nổi bật nhất là Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh.
Có thể nói, sự khắc nghiệt của đất trời, cộng với nghĩa khí, trí tuệ và bản lĩnh, đã tạo nên lớp lớp nhân tài quân sự của xứ Nghệ. Một “đặc sản” mà càng nhìn lại lịch sử, càng thấy rõ sức mạnh tiềm ẩn trong tính cách con người nơi miền gió Lào cát trắng này.
Trong một phát biểu trước đây, ông từng nói rằng “tư duy kinh tế của người Nghệ kém”. Nhiều ý kiến cho rằng điều này xuất phát từ điều kiện tự nhiên, khi sản xuất nông nghiệp chủ yếu tự cung tự cấp, trao đổi nhỏ lẻ trong cộng đồng. Theo ông, đó là đặc trưng về tư duy kinh tế hay chỉ là một phong cách làm kinh tế của người xứ Nghệ?
- Tôi cho rằng đó thiên về phong cách nhiều hơn là hạn chế về tư duy. Cần phải hiểu bối cảnh hình thành. Như chúng ta đã nói, xứ Nghệ vốn là vùng đất khắc nghiệt, “thiên thời, địa lợi” không mấy khi ưu ái. Cùng trồng một cây mít, ở vùng trung du Bắc Bộ sau bảy, tám năm đã có thể trở thành cột nhà vững chắc. Nhưng cũng giống cây ấy, trồng trên đất Nghệ thì cùng lắm chỉ làm cây cảnh.
Chính bởi vậy, từ thời phong kiến, quan lại khi định thuế đã phải điều chỉnh: một sào ruộng Bắc Bộ chỉ tính 360 mét vuông, trong khi một sào Trung Bộ lên tới 500 mét vuông. Đó là sự thừa nhận gián tiếp về điều kiện sản xuất nặng nề, vất vả của vùng đất này.
Sống trong một không gian khắc nghiệt như thế, người Nghệ sớm nhận ra rằng mọi sự tích lũy vật chất đều mong manh. Chỉ cần một trận lũ, một năm hạn, hoặc một biến cố chiến tranh, tất cả có thể trở về con số không. Từ đó, tâm thế của người dân ít đặt nặng chuyện tích lũy, ít quan tâm đến việc tính toán kinh tế lâu dài. Họ coi thường hơn những giá trị vật chất hữu hạn, và tìm đến tri thức, đạo lý, sự kiên cường để làm chỗ dựa.
Một yếu tố khác cũng đáng nhắc tới: Không gian chợ quê ở Nghệ An và Hà Tĩnh vốn thưa thớt, đường sá cách trở, giao thương phụ thuộc vào đò ngang, bến nước. Thị trường xuất hiện muộn và không đủ sức trở thành động lực thúc đẩy tinh thần kinh thương.
Người Nghệ thường nói “căn cơ không lại trời”, nghĩa là con người có tính toán đến đâu cũng khó thắng nổi thiên nhiên nghiệt ngã. Bởi vậy, họ học hành chăm chỉ, chịu khó rèn luyện tri thức và ý chí, nhưng trong tính toán lợi ích kinh tế thì thường lép vế so với những vùng đất thuận lợi hơn.

Ở một góc nhìn khác, ta lại thấy một thực tế khá thú vị: Nhiều người con xứ Nghệ, khi bước ra khỏi quê hương, thường đạt được thành công rực rỡ ở những vùng đất khác. Có thể kể đến những doanh nhân tầm cỡ như tỷ phú Phạm Nhật Vượng (với Vingroup), Nguyễn Cảnh Sơn (với Eurowindow), Thái Hương (TH True Milk), hay “Đại gia điếu cày” Nguyễn Thanh Thản... Điều gì đã lý giải cho sự thành công đặc biệt của những người Nghệ này, thưa ông?
- Tôi cho rằng sự thành công ấy bắt nguồn từ một sự hòa trộn hết sức đặc biệt. Người Nghệ vốn mang trong mình cốt cách rất rõ nét: kiên cường, chịu thương chịu khó, giàu nghị lực và có ý chí vươn lên mạnh mẽ. Đó là di sản được hun đúc qua hàng trăm năm trong điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, đất đai cằn cỗi, khí hậu khắc khổ. Chính môi trường ấy tạo ra con người Nghệ Tĩnh “cứng cỏi như đá ong”, không dễ khuất phục trước nghịch cảnh.
Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại ở sự cứng cỏi thì khó tạo nên thành công lớn trong thời đại hội nhập. Điều đáng nói là khi rời quê, người Nghệ biết tiếp nhận, hấp thu và dung hòa những phẩm chất của các vùng miền khác.
Họ giữ lại cho mình tinh thần chịu khó, tính kiên định, đồng thời học hỏi sự mềm mại, uyển chuyển trong giao tiếp, sự năng động trong kinh doanh, hay tư duy mở của những vùng đất mới. Chính sự kết hợp này đã tạo nên một thế hệ doanh nhân Nghệ An, Hà Tĩnh vừa có gốc rễ bền chặt, vừa có khả năng thích ứng linh hoạt.
Ví dụ, ông Phạm Nhật Vượng xây dựng đế chế kinh doanh đa ngành trên phạm vi toàn cầu, điều đó không thể chỉ nhờ vào nghị lực Nghệ Tĩnh, mà còn nhờ sự khéo léo, tầm nhìn chiến lược, và khả năng vận dụng kinh nghiệm quốc tế.
Ông Nguyễn Cảnh Sơn hay bà Thái Hương cũng vậy, đều thành công nhờ biết kết hợp giữa tính kỷ luật, chịu khó với tư duy kinh doanh hiện đại, hội nhập.
Ngay cả trường hợp Nguyễn Thanh Thản, với biệt danh “Đại gia điếu cày”, cũng phần nào thể hiện rõ cá tính mạnh mẽ, dám nghĩ dám làm, đôi khi quyết liệt đến mức cực đoan, một đặc điểm không thể lẫn với bất kỳ vùng miền nào.
Xin trân trọng cảm ơn ông vì cuộc trò chuyện!
ĐT Việt Nam vừa chào đón 2 tân binh sinh năm 2000, là Khổng Minh Gia Bảo và Nguyễn Trần Việt Cường
Theo ghi nhận của phóng viên, tại khu vực khai thác cát của Công ty TNHH Việt Châu (Khu 2, xã Vạn Xuân, Phú Thọ), hàng loạt xe tải và máy xúc “dàn trận” bên bờ sông Hồng và có dấu hiệu sử dụng phương tiện khai thác cát chưa đúng phương pháp được phê duyệt.
Đề xuất mở rộng thuế nhập khẩu của Mỹ với hơn 700 mặt hàng chứa thép đang làm dấy lên lo ngại Việt Nam có thể bị “vạ lây”, khi thép và sản phẩm thép Việt Nam chiếm tới 16% kim ngạch xuất khẩu sang thị trường này.
Triển khai kế hoạch cao điểm 60 ngày đêm, Công an TP Hà Nội đang tiên phong làm sạch dữ liệu đăng ký phương tiện và giấy phép lái xe qua nền tảng số iHanoi, với gần 3.000 hồ sơ được người dân cập nhật chỉ trong vài giờ đầu thực hiện.
"80 năm qua, Ngành Nông nghiệp và Môi trường đã viết nên trang sử vẻ vang cùng với lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc. Trong gian khó, bản lĩnh, ý chí tự lực và tinh thần sáng tạo, khát vọng của những người làm trong lĩnh vực nông nghiệp, tài nguyên và môi trường đã được tôi luyện, hun đúc, trở thành nền tảng vững chắc cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước hôm nay", Bộ trưởng Trần Đức Thắng khẳng định.
Dù đã có vaccine phòng bệnh nhưng trong thời gian qua, bệnh Dại tiếp tục có xu hướng gia tăng tại các địa phương trên cả nước. Nguyên nhân do người bị động vật (chó, mèo) nghi dại cắn không tiêm vaccine hoặc tiêm muộn, không đủ liều.
Nghề dệt thổ cẩm Chăm Mỹ Nghiệp xã Ninh Phước, tỉnh Khánh Hòa đã tạo ra nhiều sản phẩm đa dạng phù hợp với xu thế hiện nay để phục vụ du khách trong và ngoài nước.
Chỉ một ngày sau ca phẫu thuật tại Bệnh viện Đa khoa Vinmec Hạ Long, ông K. - bệnh nhân bị thoát vị vết mổ vùng thắt lưng hiếm gặp - đã hồi phục và được xuất viện.
Mang khối u ác tính nằm tại “điểm tử” hang môn vị và mắc nhiều bệnh nền, cụ bà 80 tuổi tưởng chừng không còn cơ hội sống. Nhưng chỉ sau 1 ngày phẫu thuật nội soi tại Bệnh viện Đa khoa (BVĐK) Vinmec Cần Thơ, bà đã phục hồi ngoạn mục.
Từ những đồi núi hoang sơ, cây cà phê đã bén rễ, sinh sôi, mang lại mùa no ấm, giúp đồng bào dân tộc Sơn La thoát nghèo, làm giàu bền vững.
Suốt cuộc đời chinh chiến, Tào Tháo đối mặt với vô số kẻ thù hùng mạnh như Đổng Trác, Viên Thiệu, Lưu Bị, nhưng tất cả đều không đáng sợ bằng nhân vật này.
Nhận nhiều phần thưởng cao quý, Nhà giáo Nguyễn Văn Hoà vẫn khiêm nhường nói: “May mắn lớn nhất đời tôi là được đứng trên bục giảng".
Rau mì chính, rau Bina Chaya xuất xứ Mexico, rau sắn Nhật là loại rau lạ, chất xơ "la liệt", là các cái tên đang được nhắc đi nhắc lại nghe nhiều tưởng như "đau đầu" ở các diễn đàn "rau nhà tự trồng", các website bán cây cảnh, cây rau giống, các hội nhóm, trang mạng xã hội...Đành rằng, rau mì chính ăn là tốt, rau Bina Chaya có nhiều vi khoáng, rau sắn Nhật ăn ngon, ngọt như mì chính. Nhưng có phải ai cũng ăn, cứ ăn nhiều là hay?
Hai đêm diễn bùng nổ của “ông hoàng Kpop” G-DRAGON tại Ocean City không chỉ khẳng định sức hút của ngôi sao hàng đầu quốc tế, mà còn chứng minh năng lực tổ chức world tour của Việt Nam - một điểm dừng chiến lược mới trên bản đồ âm nhạc toàn cầu. Đằng sau ánh đèn rực rỡ là tầm nhìn và chiến lược dài hạn, khi những tập đoàn tiên phong như Vingroup đang từng bước đặt nền móng cho kỷ nguyên công nghiệp văn hoá và du lịch âm nhạc Việt Nam.
Trước ý kiến của một số đại biểu Quốc hội cho rằng quy định cho phép phạm nhân lưu trữ trứng, tinh trùng "thiếu tính khả thi", Đại tướng Lương Tam Quang, Bộ trưởng Bộ Công an cho biết Chính phủ sẽ nghiên cứu, cân nhắc kỹ lưỡng trước khi trình Quốc hội thông qua.
Hoa hậu Nguyễn Ngọc Kiều Duy đến Nhật Bản chinh phục vương miện Miss International 2025, cuộc thi kéo dài trong vòng 2 tuần.
Công an phường Tân Thành, TP.HCM đã hỗ trợ, giúp đỡ công dân quốc tịch Pháp đoàn tụ với người thân sau hơn 13 năm xa cách.
Đó cũng là ý kiến của ông Nguyễn Đức Hà, nguyên Vụ trưởng Vụ Cơ sở Đảng, Ban Tổ chức Trung ương tại tọa đàm trực tuyến “Góp ý vào Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV của Đảng” với chủ đề “Kiến tạo khát vọng Việt Nam hùng cường”, do Báo Nông thôn Ngày nay/Báo điện tử Dân Việt tổ chức.
Cơ quan công an ở TP. Huế cảnh báo tình trạng nhóm người lạ mặt giả danh đoàn từ thiện để lừa đảo người dân trên địa bàn sau mưa lũ.
Phòng CSGT Công an TP.HCM (PC08) khuyến cáo người dân khẩn trương rà soát và chấp hành đúng quy định về mua, bán, sang tên xe, tránh rủi ro pháp lý và nguy cơ bị phạt đến 12 triệu đồng.
Tại Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV của Đảng đã đặt ra mục tiêu tăng trưởng 2 con số trở lên. Góp ý về vấn đề này, PGS.TS Vũ Sỹ Cường cho rằng, cần phải lường trước thách thức sẽ xảy ra là gì để đưa ra bài toán "đối đáp" hiệu quả.
Ủng hộ việc thu thập thông tin sinh trắc học của phạm nhân, tuy nhiên một số ý kiến đại biểu Quốc hội cho rằng việc cho phép phạm nhân có quyền hiến mô, lưu trữ trứng, tinh trùng là vấn đề phức tạp, cần nghiên cứu kỹ lưỡng hơn trước khi đưa vào luật.
Một cụ ông 85 tuổi ở Pháp dự định lái xe 19km đến phòng khám, nhưng hệ thống GPS đã đưa ông đi nhầm đường hơn 1.500 km, xuyên qua Italy rồi đến tận Croatia.
Hà Nội đầu tư 869 tỷ đồng để xây dựng công trình khẩn cấp để bổ cấp nước cho sông Tô Lịch, giải quyết úng ngập cục bộ khu vực Resco, Ecohome, Ngoại giao đoàn, Tây hồ Tây, Ciputra và lân cận.
Cấp tín dụng không có bảo đảm, cấp tín dụng với điều kiện ưu đãi cho đối tượng hạn chế không đúng quy định pháp luật, đó chỉ là một trong hàng loạt sai phạm tại Ngân hàng TMCP Đông Nam Á – Chi nhánh Thái Nguyên vừa bị Thanh tra Ngân hàng Nhà nước – Chi nhánh khu vực 5 phát hiện.
Serbia có nguy cơ rơi vào thế khó do châu Âu đang chuẩn bị chiến tranh với Nga, Tổng thống Serbia Aleksandar Vučić phát biểu trên kênh Pink TV.
UBND tỉnh Lâm Đồng đã ban hành Lệnh xây dựng công trình khẩn cấp xử lý, khắc phục sạt lở tại đèo D'ran và đèo Gia Bắc với tổng số tiền hơn 9 tỷ đồng.
Không chỉ kiến tạo chuẩn mực sống xanh thời thượng và sống sang bền vững cho cư dân, Vinhomes Wonder City còn là minh chứng sống động khẳng định tầm nhìn đầu tư khác biệt của giới tinh hoa tại phía Tây Hà Nội.
Chiều ngày 10/11, Lễ ra mắt mô hình thí điểm Kiosk thông minh và Hệ thống xác thực, cấp bản sao số tài liệu điện tử được long trọng tổ chức tại Trung tâm Phục vụ hành chính công thành phố Hà Nội (258 Võ Chí Công, Tây Hồ, Hà Nội). Agribank vinh dự là đơn vị tài trợ Kiosk, đồng hành cùng TP Hà Nội nâng cao chất lượng phục vụ hành chính công; hỗ trợ người dân, doanh nghiệp tiếp cận dịch vụ công tiện ích, nhanh chóng, minh bạch; góp phần thực hiện chiến lược chuyển đổi số, cải cách hành chính theo định hướng của Đảng, Nhà nước, Chính phủ.
Xã Hồ Tràm được định hướng phát triển du lịch theo hướng xanh - bền vững - đẳng cấp, góp phần đưa TP.HCM mới trở thành trung tâm du lịch nghỉ dưỡng và chăm sóc sức khỏe hàng đầu của khu vực.