Trong thời buổi ấy, hoàn cảnh ấy, giữa khó khăn muôn vàn, nhưng tôi cũng có những thuận lợi riêng, tận dụng để bồi bổ tinh thần cho mình. Nếu theo cách của bây giờ thì có lẽ với hoàn cảnh như vậy, tôi không tiếp cận được Truyện Kiều, Lục Vân Tiên và một số tác phẩm lừng danh của văn học cổ sớm đến thế. Tôi học những tác phẩm này qua lời đọc truyền miệng của bà nội tôi.
Những chuyện cổ tích, thần thoại, ca dao, tục ngữ... ba má tôi và những người thân tuy bận rộn một nắng hai sương với đồng áng, nhưng cũng luôn mở lòng, sẵn sàng kể, đọc cho tôi nghe bất cứ lúc nào.
Cái xóm núi heo hút "chim kêu vượn hú" của tôi đã không còn thấy cô đơn vì những con người chân lấm tay bùn luôn lưu giữ ở mức độ nào đấy
những trang sách, báo, để rồi mỗi lúc rảnh rỗi đem ra đọc, kể lại cho lũ trẻ chúng tôi. Cũng có khi lũ trẻ chỉ biết ngồi để "hóng", nghe người lớn nói chuyện sau khi đọc những trang báo, nghe tin tức trên đài. Những hình ảnh tình làng nghĩa xóm như bát nước đầy... rất đỗi thân thương, về đất nước, con người, về một nơi nào đó như rất xa xôi nhưng mang hồn thiêng dân tộc, gần gũi cứ thế hiển hiện qua trí tưởng tượng của lũ trẻ.
Nhà văn, Nhà báo: Nguyễn Thanh Mừng
Mỗi thời mỗi khác. Lớp trẻ bây giờ được trang bị nhiều điều kiện hơn,
nhiều sách vở cũng như các phương tiện học tập tối ưu, phương tiện nghe, nhìn, xem, đọc... thì nhiều vô kể. Họ xứng đáng
được hưởng thành quả của nền văn minh nhân loại đem đến trong hoàn
cảnh đất nước hòa bình, phát triển. Nhưng chúng tôi cũng đôi khi tự an ủi rằng
mình ngày xưa được nhiều thứ quý giá mà "bọn nhóc" bây giờ ít có được.
Lũ chúng tôi hồi ấy, lớn thêm chút thì đến tuổi í ới rủ nhau đến trường, nhưng không cần phải người lớn đưa đón.
Đứa nào trốn học, thầy cắt cử một đội mấy đứa lớn nhỉnh, khỏe mạnh,
xách thúng đi… khiêng. Bởi có lệ đó, nên đứa nào cũng sợ xấu hổ, ít
dám giỡn mặt. Lúc ra chơi, vào nhà quen kiếm ít củ mì củ lang hoặc
xoài, mít lót dạ. Đôi khi nổi hứng nhảy ùm xuống sông bơi vài vòng cho
mát.
Thước kẻ, ê-ke, com-pa tự tạo bằng tre gỗ. Bìa vở tự tìm bao lấy
bằng đủ loại giấy. Nhãn tự kẻ lấy. Khi đi học, ngoài mấy quyển vở và
quản bút có ngòi viết bầu hoặc ngòi viết lá tre, đứa nào cũng mang
theo một bình mực tím. Hình như thái độ quả quyết, ý thức độc lập,
chưa bao giờ là món xa xỉ so với tầm tay chúng tôi.
Điều này, tôi và bạn bè tôi, lứa học trò lớn lên trong gian khổ cơ cực
hồi ấy hết sức thấm thía.
Tôi cố gắng học hành giữa vùng quê "xôi đỗ" - Bình Định,
tối tối nghe tiếng súng là xuống hầm, sáng ra bạn bè từ các xóm tụ về
ngôi trường mái lá ngoài bờ sông kể cho nhau nghe những diễn biến của
đêm hôm qua, cuộc chạm súng như thế nào, ai chết, ai bị thương. Việc
máy bay Mỹ từ quận bay lên thôn, lính biệt kích vào một nhà ai đó bị nghi kỵ để
đập phá, hay cảnh dàn lính rượt đuổi nông dân trên đồng lúa để bắt bớ chở
đi là việc xảy ra thường tình như cơm bữa ở làng tôi.
Một thanh niên
leo cây hái ổi bị hai tên lính cá cược bắn rơi xuống chết tức tưởi.
Một gia đình bị ca-nông sát hại người vợ và năm con, chỉ mỗi ông chồng
bị trưng dụng ra ngủ ở trụ sở nên còn ở lại trần gian với nỗi đau muôn
đời không phai nổi. Đó cũng không phải là những chuyện hi hữu.
Nhưng đó là chuyện dài, tôi sẽ mô tả kỹ lưỡng hơn trong một dịp khác.
Trong bài viết này, tôi muốn đề cập đến ước mơ chữ nghĩa, ước mơ làm
văn, làm báo đã hình thành trong tôi thời thơ ấu. Hồi ấy, chúng tôi đâu
có tờ báo nào để đọc, còn radio thì nhà nào khá giả một chút mới có.
Ti-vi thì chịu.
Như trên đã nói, việc làng việc xóm được thông tin cập
nhật bằng cách truyền miệng. Có lẽ đó là hình thức báo chí nguyên thủy
loài người có được từ thời mông muội cho đến ngày nơi nào còn thiếu
vắng sự hưởng thụ thành quả báo chí chuyên nghiệp thì hình thức trên
vẫn hãy phát huy tác dụng.
Đó không chỉ là việc phổ biến những thông tin mang tính cập nhật mà cả
về việc phổ biến tác phẩm văn học. Tất nhiên, văn học dân gian thì vốn
dĩ rồi, mà cả văn chương bác học cũng thế, lưu hành qua hình thức
truyền miệng.
Từ thực tế trên, tôi hoài thai khát vọng ghi lại những
hình ảnh, những mẩu chuyện của đời tôi và bạn bè tôi, làng xóm tôi từ
ngày ấy. Để làm gì? Vì tôi thực sự có nhu cầu là qua lời kể của mình
để mọi người cùng biết, cùng đồng cảm, cùng chia sẻ. Thế thôi. Ước mơ
trở thành nhà văn, nhà báo trong tôi hình thành theo nhu cầu tự nhiên
như vậy.
Công việc ấy thực sự tôi làm được chút đỉnh qua các tờ báo tường (hồi
ấy quen gọi là bích báo) mang tên HOA NIÊN và tờ đặc san mang tên NÉT
BÚT TUỔI THƠ rồi NÉT BÚT HỌC TRÒ, thời những năm đầu bậc trung học.
Lúc này, tôi đã vào Quy Nhơn, hoàn thành bậc tiểu học ở trường Đào Duy
Từ rồi thi Đệ Thất vào trung học Cường Để, ngôi trường vào loại sang
trọng nhất tỉnh.
Trên các tờ báo học trò này, bài viết đậm đặc những
dư vị cay đắng của quê hương thân thiết đang ngập tràn trong khói lửa
điêu linh, thống khổ. Có lẽ, lòng yêu Tổ quốc, yêu dân tộc, yêu quê
hương của mỗi đời người đã có những cách thể hiện khác nhau tùy hoàn
cảnh, như những mạch nước, lúc thì ngấm ngầm trong lòng đất, lúc thì
tung sóng ngất trời cùng mây gió. Tôi đã từng hồi tưởng điều này trong
một bài viết, in trong quyển "Các nhà văn Việt Nam thời đi học đã học
văn …" bộc bạch về hoàn cảnh của mình và tâm thế khát khao đón nhận
hòa bình như thế nào.
Những tờ báo học trò trong những năm đất nước
chiến tranh đã giúp tôi khá nhiều việc chuyển tải tình yêu quê nhà lên
trang viết, cũng như xây đắp bước đầu cho nghề nghiệp làm văn làm báo
mà tôi sẽ đi trọn cuộc đời với lòng thủy chung bền bỉ.
Thật kỳ diệu là
tuổi học trò, chúng tôi vẫn "có một tòa soạn" với bao nhiêu phóng viên,
cộng tác viên, xúm xít đọc, biên tập, tuyển chọn rồi nắn nót thể hiện
sao cho đẹp, gây ấn tượng giữa bao nhiêu tờ báo lớp khác trong một mái
trường. Tờ báo của lớp tôi nhiều lần có thành tích dẫn đầu toàn khối
rồi được chọn trưng bày suốt năm trong văn phòng đã đem lại nhiều phấn hứng cho "Ban biên tập" cũng như tập thể lớp.
Bây giờ nhớ lại, tôi vẫn rất tự hào, niềm tự hào trong trẻo của quãng đời đi học, được tập dượt và thể hiện nỗi đam mê của mình trong bước đầu đến với làng văn làng báo.
Tôi có một vài kỷ niệm không thể nào quên. Tôi đã viết một bài đăng
báo tường về cảnh đi học với áo tơi nón lá, bờ ruộng mấp mô, những đêm
nghe trọng pháo, lăn xả xuống hầm. Nhà nào cũng có một hầm chất bao bố quanh phản gõ để nấp tạm thời rồi tùy tình hình, nếu thấy ác liệt quá
thì bò ra vườn xuống hầm kèo dưới bụi tre, kiên cố hơn nhiều.
Hầm kèo
đôi khi dùng chung cho vài ba nhà. Nhất thiết, hầm nào cũng có củ nén
để xua rắn độc. Xuống đó, được hít mùi rễ cây và đất ẩm sực nức, đôi
khi còn nghe tiếng dế gáy ran trên nắp. Mùa hạ còn đỡ, mùa mưa thì
khỏi nói. Tôi đã từng bị lóp ngóp trong nước ngập dưới lòng hầm nhão
nhoét, sau đó cảm sốt mất mấy ngày. Lại có hôm, chiến sự kéo dài, khi
bước ra bất chợt gặp trời tảng sáng, một bông hoa dong riềng nở rực rỡ
trên miệng hầm với tiếng chích chòe ban mai trong suốt.
Vừa đến trường
vừa giở vở học vội vàng, vậy mà cũng thuộc bài, cũng được thầy giáo
khen. Bài báo đơn giản vậy nhưng gây cảm động mạnh cho các bạn đọc,
nhất là những người bạn phố phường, hồi nào đến giờ chưa từng sống ở
nhà quê, không tưởng tượng nổi. Sau bài báo, tôi có thêm một số bạn
khác lớp đến làm quen, tỏ rõ mối thiện cảm.
Một kỷ niệm khác, tôi viết
một bài về cảm nhận tác phẩm Chiều hôm nhớ nhà, thơ Bà Huyện Thanh
Quan. Tôi không đi vào phân tích bài bản kiểu học đường mà chỉ qua âm
hưởng nhớ thương ngui ngút đó gửi gắm ít tâm sự của mình về làng quê
rồi kết luận bằng một câu nghẹn ngào về cảnh ly hương của chính mình.
Mấy bạn trong Ban biên tập bảo tự nhiên đọc thấy rơm rớm nước mắt. Tôi xúc động trước tình cảm các bạn và như được tiếp thêm sức mạnh để thấy mơ ước làm văn làm báo của mình hoàn toàn có cơ sở, thật trân trọng và đầy ý nghĩa.
Chữ nghĩa đã đem đến cho tôi niềm hạnh phúc thánh thần của tuổi thơ,
ấy là sự níu kéo những tâm hồn đồng điệu, xa lạ thành gần gũi, thân
thiết rồi càng thân thiết hơn.
Việc hoạt động báo lớp, báo trường đã gắn bó với đời tôi, từ tiểu học,
trung học cho đến sau này, lên đại học. Tôi nghiệm ra, làng văn làng
báo học trò tuy nhỏ hẹp mà mênh mông, đơn giản mà phong phú, nó chắp cánh cho những ước mơ đầu đời để khi ra trường thêm nhiều lý do để tự tin, bớt đi rất nhiều bỡ ngỡ.
Ngoảnh lại năm tháng học trò, tôi thầm
cảm ơn biết bao gương mặt thân yêu, từ quê nhà đến trường ốc, thầy cô,
bè bạn, những trang viết thấm đẫm tình yêu ban sơ, tín nghĩa, bao
dung, khát vọng… Nếu ví đời mình như một dòng sông thì đoạn đường đó là những mạch suối róc rách, hương vị và âm thanh của nó mãi mãi tinh khôi, mãi mãi thôi thúc cho sự dâng tràn và lan tỏa…
Vui lòng nhập nội dung bình luận.