Sóc Trăng là một tỉnh thuộc đồng bằng sông Cửu Long.
Địa hình tương đối bằng phẳng, vùng đồng bằng chiếm 100% diện tích tự nhiên
toàn tỉnh. Hệ thống sông ngòi ở Sóc Trăng nhiều, chằng chịt dọc ngang, chảy tới
các địa phương khác trong vùng. Sóc Trăng có 72 km bờ biển và nhiều cửa sông đổ
ra Đông hải.
Việc đánh bắt cá tôm đã trở thành một nét đẹp trong
đời sống thường nhật và cả trong văn hoá nhận thức của người dân.
Có rất
nhiều hình thức đánh bắt, tuỳ theo từng “đối tượng” sẽ có những công cụ, phương
tiện phù hợp. Trong số nhiều công cụ đánh bắt truyền thống, ngày nay đã dần mai
một hoặc đã thay đổi nhiều. Từ điền dã thực tế, chúng tôi giới thiệu cái nò
dùng để bắt tép bạc, vật dụng đã gắn liền với mảnh đất này từ thuở tiền nhân
dừng chân mở cõi, khẩn hoang!
Chồng chài vợ lưới
con câu
Chàng rể đặt lọp con
dâu thăm nò
Ở những vùng đất gần cửa biển, sông rạch tràn nước
mặn, đó là môi trường thuận lợi cho loài tép bạc sinh sống. Tép bạc con cỡ ngón
tay, màu trắng bạc, thường bơi ngược nước, thành từng đàn. Chỗ nào nước chảy
mạnh, tép đi càng nhiều. Lợi dụng đặc tính đó, người dân Cửu Long chế ra cái nò
để bắt chúng.
Nò làm bằng tre, hình trụ tròn cao hơn đầu người.
Miệng nò có hai thanh tre cứng đặt song song, rộng chừng 2 tấc rưỡi, ba tấc.
Ngày xưa, muốn làm vành nò, người ta thường đi theo các vườn tre, rừng tràm hay
rừng cây mọc hoang như mù u, bằng lăng, … để bứt dây cổ rùa về uốn vành.
Dây cổ
rùa là loại dây bò trên các loại cây vừa kể, có nhiều dây lớn, chu vi cỡ nửa
cườm tay, ngón chưn cái, có đặc tình dẻo, bền, dễ uốn cong theo ý người sử dụng.
Dùng loại dây cổ rùa này làm vành nò có khi xài được vài ba mùa mà khỏi mất
công. Không có dây cổ rùa, thì đốn tre, cắt khúc, phơi khô rồi chẻ ra và vót tròn
để uốn vành.
Thân nò được bao bằng tre, trúc vót cọng tròn cỡ chiếc đũa ăn, bện
dày khít bằng dây choại. Hom nò chạy dọc theo thân, đặt ở miệng nò. Hom làm
bằng trúc vót dẹp, có đầu nhọn. Nhiều nơi làm hom nò bằng cọng sống của lá dừa
nước.
Nò làm xong phải bện đăng để ven. Đăng thường bện
bằng sậy, dây dùng bện đăng là dây của bụp dừa nước chẻ, phơi khô. Đăng nò cũng
có thể bện từ cọng tàu dừa nước chẻ, phơi khô, vót lại hình dẹp cỡ ngón tay
cái, …
Bện đăng xong thì xuống nò …. Chỗ đặt nò phải lựa nơi
có dòng nước chảy mạnh, thường là dưới bến sông trước cửa nhà. Có nhà làm hai
ba nò, không có chỗ thì “mượn chỗ” của bà con hàng xóm (những nhà này có chỗ
“ngon” mà không sử dụng!), …
Đăng nò được ven thành hình chữ V Miệng nò vừa với
phần hẹp nhất của hai tấm đăng ven, … Để ra thăm nò được thuận lợi, nhà nghèo
không có xuồng, ghe, khỏi phải mất công mượn của cô bác, thì khi xuống nò người
ta chặt tre, hay đủng đỉnh, bình bát, trâm bầu, … bắt cầu ra thăm nò! Như vậy
cho tiện, …!
Chiều chiều của những ngày ra giêng (khoảng từ tháng
2 đến tháng 5 âm lịch, trước khi mùa mưa tới) người ta đi đặt nò, … Chạng vạng
tối thì đốt đèn cho nò. Đèn đốt bằng dầu lửa làm bằng cái chai cắt miệng, tiêm
đèn bằng vải (loại vải may mùng, hay vải khăn rằng, không có chất nylong, hút
dầu lửa và cháy tốt!), trên có chụp đèn làm bằng miếng thiếc hình tròn, để che
gió, mưa, … Tép bạc thấy ngọn đèn dầu sáng lập loè thì bơi đến … và tất nhiên
là chung vô … nò!
Thú vị hơn nữa là khoảng hết canh một, người ta
thường xuống nhìn tép vô nhiều hay ít, gặp lúc trúng hàng chục chú tép bạc mắt
sáng như “đốm lửa” nhởn nhơ lội tung tăng trong lòng … nò! Thấy tép đã nhiều,
người ta dỡ nò. Đem nò lên bờ đổ ra thau, thúng, rổ, … Xong xuôi, đặt nò, treo
đèn lại. Nò bắt được tép bạc là nhiều nhất. Bên cạnh tép, cá bóng cát, cá bống
dừa, cá chốt, cũng … chạy nò!
Tép bạc lựa ra, đổ vào cần xé, rọng … dưới sông. Bởi
ở chỗ nước ngừng chảy là tép chết!
Tép
bạc có nhiều cách để chế biến món ăn. Đơn giản nhất là luộc với nước lả, hoặc
nước dừa, … Tép chín đỏ đổ ra ăn với nước mắm chanh, ớt, … rau rừng, … cầu kỳ
hơn thì gói bánh tránh, với bún, …
Trẻ con thích bắt tép bạc xỏ cọng lá dừa cho vào lò
than củi cháy hồng để nướng. Tép nướng ăn ngon và ngọt và thơm hơn tép luộc, …
Tép bạc tái chanh cũng là món ăn được dân quê ưa
thích. Muốn có được đĩa tép bạc tái chanh thơm ngon trước hết phải chọn tép bạc
tươi, còn nhảy xôi xối. Dùng tay lột sạch vỏ, râu, bỏ gạch, cho vào đĩa nước
chanh đã vắt sẵn (hay giấm thật chua, có sẵn mấy cọng ngò gai sắt sợi), trộn
đều lên xuống vài lần cho tép bạc thấm đều.
Cho vài muỗng nước mắm ngon vào
trộn lên, phủ thêm một lớp rau thơm (chủ yếu là lá quế và lá ngò gai), thêm vài
lát ớt đỏ hồng tăng phần hương vị miền quê sông nước. Vị ngọt của tép bạc, cùng
với hương thơm của rau, mùi cay nồng của ớt, chanh chua thanh quyện vào nhau
với ly rượu đế thì thật … đã đời!
Tép bạc cắt phần gai nhọn trên đầu và phần đuôi, bắt
lên chảo rang với nước mắm. Khi tép gần chín cho thêm nước dừa tươi vào, vị
ngọt của dừa, cọng với vị ngọt của tép, kèm thêm với rau rừng, dưa leo, … sẽ là
bữa ăn ngon lành bên nồi cơm gạo mới.
Tép còn có thể dùng để xào với rất nhiều loại rau
rừng mọc hoang ở miền tây Nam Bộ. Trong số đó phải kể đến món tép xào với bồn
bồn mà ngày nay trong các nhà hàng cao cấp đã trở thành đặc sản.
Tép có thể xào
với dưa leo, xào với bạc hà, … nhưng độc đáo nhất có lẽ là xào với đọt choại.
Choại là loại dây leo, thường sống trên thân cây tràm, dây choại người dân dùng
để làm nhà, dùng để bện tre trúc làm nò, lọp …
Sau những cơn mưa đầu mùa, cũng như các loài thực vật
khác, choại bắt đầu đâm chồi, đọt choại non xanh mơn mởn bám đầy trên những
thân tràm. Chỉ cần xách rổ đi hái một lúc là đủ một bữa ăn, chọn những đọt to
tròn đem về rửa sạch, rồi xào với tép bạc, món ăn ngon đơn giản vừa mang hương
vị “cây nhà lá vườn”
Để kết thúc bài viết này chúng tôi xin nhắc lại câu
ca không biết từ bao giờ đã được người bình dân miệt đồng ngâm nga:
Buổi chợ đương đông
con cá lòng tong anh chê lạt
Buổi chợ tan rồi con
tép bạc anh khen ngon
Trên thực tế, cá lòng tong không thể sánh bằng tép
bạc. Vấn đề mà dân gian muốn thể hiện là cách “nói ngược” chăng? Hay vì
từ tố “bạc” mà tép bạc mang lấy tiếng oan!
Ngày nay, cách đặt nò bắt tép đã ít dần, có lẽ do
tiến trình ngọt hoá bán đảo Cà Mau nên tép bạc đã lui dần ra biển, hay do bị con
người đánh bắt nhiều quá bằng những phương tiện hiện đại hơn nên nguồn hải sản
đã dần cạn kiệt, …
Cái nò cũng đã dần dần chỉ còn trong
ký ức của những bậc lão nông tri điền, mỗi khi có dịp bên ly trà nóng họ kể cho
con cháu nghe chuyện đặt nò bắt tép, chứ trong thực tế, ngày nay cái nò đã gần
như vắng bóng!
Hai Miệt Vườn (Hai Miệt Vườn)
Vui lòng nhập nội dung bình luận.