Vị thế của ngành Than trong hành trình 60 năm phát triển của Quảng Ninh
Ngành Than trong hành trình 60 năm của Quảng Ninh: “Dòng chảy ngầm” bền bỉ và bất diệt
Ngô Mai Phong (thực hiện)
Thứ sáu, ngày 27/10/2023 13:20 PM (GMT+7)
Với sự trung kiên và sức cống hiến không biết mệt mỏi, cộng đồng những người thợ mỏ đã bền bỉ đóng góp cho sự vẹn toàn, phồn thịnh của Quảng Ninh trong suốt 60 năm qua...
Xoay quanh chủ đề "ngành Than ở vị trí nào trong tiến trình 60 năm xây dựng và phát triển của Quảng Ninh", cuộc trò chuyện giữa ông Nguyễn Mạnh Tường - Phó Bí thư thường trực Đảng bộ Than Quảng Ninh (TKV) với phóng viên diễn ra cởi mở, giản dị như chính câu chuyện "nửa đời nhìn lại" của một người từng kinh qua choòng cuốc của nghề thợ mỏ chứ không giống như cuộc phỏng vấn.
Ông Tường nhớ lại thời kỳ sơ khai của ngành than: Ngày 25/4/1955, vùng Mỏ vừa giải phóng, Xí nghiệp quốc doanh Than Hòn Gai - đơn vị đầu tiên của ngành mỏ chịu trách nhiệm quản lý tài nguyên và khai thác tại hai khu vực Hòn Gai - Cẩm Phả được gấp rút thành lập, bắt tay ngay vào khôi phục hạ tầng, vừa cung cấp sản phẩm cho nền công nghiệp sơ khai của đất nước.
Đời sống thợ mỏ khi đó thiếu thốn trăm bề và gánh nặng riêng chung chất trên vai mỗi người giai đoạn đầu không dễ gì đo lường. Năm 1963, tỉnh Quảng Ninh được thành lập. Tên gọi này đã đi vào tiềm thức và niềm tự hào của vùng đất rộng dài 6.000km2 đang chung sống 21 dân tộc anh em...
Thời mà ông gọi là giai đoạn sơ khai ấy kéo dài trong bao lâu thì chấm dứt, thưa ông?
- Chính xác là từ 1955 - 1986. Bởi vì chiến tranh, hạ tầng công nghiệp mỏ chủ thực dân bỏ lại hết sức lạc hậu và sơ sài. Trong kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1960 - 1965) khi công cuộc khôi phục vẫn còn đầy ngổn ngang, ngành Than đã lại phải đối phó với liên tiếp hai cuộc chiến tranh phá hoại tàn khốc của không quân Mỹ.
Sau năm 1975, đất nước thống nhất nhưng chưa kịp yên bình đã lại phải chống trả liền hai cuộc xâm lăng biên giới Tây Nam và phía Bắc. Vì lẽ ấy, bao nhiêu năm, ngành Than vùng vẫy mãi trong cơ chế sản xuất kế hoạch hóa tập trung, thứ phương thức chỉ phù hợp với thời chiến mà không sao tiếp cận được với những mô hình quản lý tiến bộ.
Câu chuyện "con gà đá bay tấn than" tức giá bán cả tấn than không mua nổi con gà là lối phúng dụ hài hước nhưng không xa sự thật. Đấy là những chuyện buồn không thể tin được của một thời cách đây 30 năm. Nhìn lại một cách điềm tĩnh thì đó chính là giai đoạn "lửa thử vàng"…
"Có một con số khá thú vị mặc dù người ta ít nhắc tới. Đó là trong khoảng thời gian sau năm 1995, TVN đã thu nạp trên 5.000 lao động vốn là "tàn binh than thổ phỉ". Họ được giáo dục, gửi vào các trường dạy nghề và khi vào thực tiễn đã trở thành một lớp thợ mỏ vững vàng".
Ông Nguyễn Mạnh Tường
Có vẻ như nhờ "lửa thử vàng" mà ngành than mới có những bước chuyển mình đáng nhớ?
- Đúng vậy. Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (tháng 12/1986), đất nước bắt đầu công cuộc đổi mới, thay thế chế độ bao cấp bằng nền kinh tế thị trường. Ngành than luôn chờ đợi cơ hội này nhưng khi nó xuất hiện lại không đủ tiềm lực để đón nhận. Trước nhất là nguồn tài chính thiếu hụt trầm trọng.
Cầm cự sản xuất, ổn định việc làm và đồng lương cho thợ mỏ trong điều kiện mọi tiêu chuẩn như lương thực, thực phẩm, nhu yếu phẩm... bao cấp đều không còn giá trị gì và trở thành gánh nặng cực kỳ nan giải. Áp lực của đời sống chung đã đẻ ra vô vàn hệ lụy. Tình trạng khai thác, kinh doanh than trái phép tàn phá môi trường, xâm hại tài nguyên và lũng đoạn trật tự xã hội là những vấn nạn nhức nhối ở vùng Mỏ…
Đây không phải là câu chuyện của một ngày. Trên thực tế, nó đã kéo dài gần một thập kỷ. Năm 1994, Tổng Công ty Than Việt Nam (TVN) ra đời. Việc làm đầu tiên là tổ chức lại mô hình sản xuất - kinh doanh, lấy thị trường làm thước đo tiêu chuẩn; đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu; huy động mọi nguồn vốn xúc tiến đầu tư không ngừng đổi mới công nghệ, mở rộng sản xuất; xóa sổ nạn thổ phỉ…
Rất khó liệt kê đầy đủ những gì ngành Than đã đổ vào để làm thay đổi cục diện mang tính nền tảng ở giai đoạn này. Chỉ biết rằng trước năm 1995, tổng sản lượng than khai thác của toàn ngành mới ở mức 7,5 triệu tấn/ năm. Năm 2005 vọt lên 31,3 triệu tấn, vượt xa mốc sản lượng theo quy hoạch của toàn ngành năm tới 2020.
Những chặng sau này, sản lượng than trung bình của TVN đều không dưới 40 triệu tấn/năm. Doanh thu tăng gấp 40 lần vào năm 2015 và nộp ngân sách nhà nước không dưới 1.600 tỷ đồng mỗi năm.
Ông đánh giá thế nào về hành trình 10 năm từ TVN đến Tập đoàn Than - Khoáng sản Việt Nam (TKV)?
- Tốc độ và chặng đường TKV đã đi trong 10 năm có thể sánh bằng tích hợp của nhiều thập kỷ. Quyết định của Thủ tướng Chính phủ thành lập Tổng Công ty Than Việt Nam ban hành vào cuối năm 1994 và có hiệu lực thi hành từ tháng 1/1995. Tháng 8/2005, Tổng Công ty Than được nâng cấp thành Tập đoàn Than Việt Nam. Ngày 26/12/2005, Thủ tướng Chính phủ tiếp tục ra quyết định sáp nhập Tổng Công ty Khoáng sản Việt Nam vào Tập đoàn Than và tên gọi Tập đoàn Than - Khoáng sản Việt Nam.
Tôi nghĩ rằng hành trình 10 năm không phải là dài. Và cho dù trong đoạn hành trình đó, có lúc chúng tôi từng mắc chút sai lầm do hữu khuynh về công tác quản lý, nhưng cũng chính nhờ kiên định không bao giờ xa rời sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng bộ Quảng Ninh nên ngành than đã tự điều chỉnh, lấy lại thăng bằng rất nhanh...
Theo ông, TKV có vai trò thế nào trên hành trình phát triển của Quảng Ninh 60 năm qua?
- Hiển nhiên nếu không có vùng mỏ sẽ không có giai cấp công nhân mỏ và càng không có ngọn cờ "Kỷ luật - Đồng tâm" mà những người cộng sản trung kiên đã giương cao, làm nên những cuộc đình công rung trời chuyển đất cho tới ngày vùng mỏ hoàn toàn giải phóng. Đấy chính là phẩm chất vàng ròng và nó bền bỉ như một dòng chảy ngầm bất diệt.
Năm 1963, Quảng Ninh chính thức ra đời bằng sự hợp nhất giữa tỉnh Hải Ninh và Khu mỏ Hồng Quảng thì tới năm 1965, chiến tranh phá hoại của không quân Mỹ bắt đầu tàn phá miền Bắc. Ngay trong thời khắc này, 2.000 tự vệ mỏ thuộc Binh đoàn Than đã cầm súng tình nguyện ra mặt trận.
Khu vực vùng mỏ, công nhân trở thành lực lượng "tay búa - tay súng" vừa sản xuất, vừa đánh trả kẻ thù, bắn rơi 200 máy bay Mỹ, bắt sống giặc lái trong 2 cuộc chiến tranh phá hoại. Nhiều thợ mỏ đã hy sinh trong chiến đấu. Nhiều người trở thành anh hùng.
Sau chiến tranh là giai đoạn đất nước lâm vào khủng hoảng kinh tế kéo dài, thợ mỏ là tầng lớp chịu đựng đói khổ, gian truân nhiều nhất. Họ phải san sẻ cho nhau việc làm, ngày công, bữa ăn thường nhật để không ai phải rời bỏ vị trí và từng bước vượt lên hoàn cảnh ngặt nghèo.
Sau năm 1995, ngành than đồng loạt chuyển qua một thời kỳ bứt phá mạnh mẽ, toàn diện. Từ phương thức quản lý sản xuất kinh doanh, công nghệ khai thác cơ giới hóa đến môi trường làm việc đến chất lượng nguồn lao động. Mức thu nhập bình quân của thợ mỏ hiện nay là 16 triệu đồng/tháng. Riêng thợ lò từ 30 - 43,5 triệu đồng/tháng...
Trên mỗi giai đoạn trưởng thành và phát triển, Đảng bộ Than Quảng Ninh và đội ngũ 74.000 thợ mỏ chưa bao giờ buông lơi vai trò chủ nhân đang năm giữ một ngành kinh tế động lực trong sự nghiệp kiến thiết, bảo vệ môi trường, hỗ trợ an sinh xã hội, góp phần không nhỏ đưa Quảng Ninh tiến nhanh hơn, gần hơn tới mục tiêu trở thành một tỉnh công nghiệp lớn mạnh, văn minh và phồn thịnh.
Trong bức tranh tổng thể phát triển của TKV hiện nay, theo ông đâu là điểm nhấn chính?
- Trên cơ sở tổng trữ lượng tài nguyên đã khảo sát (xấp xỉ 49 tỷ tấn than), chúng tôi đang thực hiện theo biểu đồ khai thác đến năm 2030 với mức sản lượng từ 55 - 57 triệu tấn để có thể đáp ứng cơ bản nhu cầu an ninh năng lượng quốc gia.
Ở một bình diện khác, TKV đã lên phương án sáp nhập các mỏ lớn giáp ranh tương đồng về vỉa nhằm hợp lý hóa sản xuất, tinh giản bộ máy quản lý, đồng thời đẩy nhanh tốc độ cổ phần hóa và thoái vốn nhà nước, tạo ra sức cạnh tranh chủ động, công bằng.
Ở mảng công nghiệp và khoáng sản, hiện tại TKV quản lý, vận hành 7 nhà máy điện công suất 1.550MW do tập đoàn đầu tư xây dựng, chiếm 5% tổng sản lượng của điện lưới quốc gia.
Công nghiệp hóa chất mỏ ngoài cung cấp các loại vật liệu nổ phục vụ cho ngành Than còn đáp ứng nhu cầu quốc phòng cùng 29 đầu mối kinh tế quan trọng trong cả nước.
Điều quan trọng là TKV luôn giữ vai trò động lực trong giải quyết việc làm và góp phần ổn định đời sống xã hội các cộng đồng khu vực nơi mà họ có mặt.
Ngành công nghiệp cơ khí của TKV đến giai đoạn này đã chuyển hướng chuyên biệt hóa, tạo ra các sản phẩm độc quyền dùng cho hầm lò đồng thời thực hiện liên doanh với nước ngoài lắp ráp, chế tạo các loại thiết bị mỏ hiện đại và đóng thành công cỡ tàu biển trọng tải lớn.
Với công nghiệp khoáng sản, hiện nay TKV đã có cả một hệ thống các nhà máy, tổ hợp chuyên khai thác quặng, sản xuất sắt thép và tinh luyện kim loại màu phân bố dọc 2/3 chiều dài đất nước, mỗi năm mang lại cho ngân khố một nguồn lợi không hề nhỏ.
Tựu chung lại, với sự trung kiên và sức cống hiến không biết mệt mỏi, cộng đồng những người thợ mỏ đã bền bỉ đóng góp cho sự vẹn toàn, phồn thịnh của Quảng Ninh trong suốt 60 năm qua.
Vui lòng nhập nội dung bình luận.