Huyền Anh
Thứ năm, ngày 20/07/2023 18:37 PM (GMT+7)
"Nếu tiền trở lên dễ dãi thì mục tiêu hướng đến thúc đẩy tăng trưởng, sản xuất kinh doanh có thể bị ảnh hưởng khi dòng tiền này không đổ vào sản xuất kinh doanh mà "đi chơi tài sản tài chính" quá mức. Đây là một thách thức đối với Ngân hàng Nhà nước".
Đó là chia sẻ của TS. Võ Trí Thành - Viện trưởng Viện Nghiên cứu phát triển thương hiệu và cạnh tranh tại Tọa đàm trực tuyến "Điều hành linh hoạt chính sách tiền tệ và mục tiêu tăng trưởng trong bối cảnh mới".
Chính sách tiền tệ có thể nới lỏng nhưng không để đồng tiền "dễ dãi"
TS. Võ Trí Thành cho biết, ổn định kinh tế vĩ mô là quan trọng nhưng hiện nay bối cảnh tạo điều kiện cho chúng ta có những chuyển hướng chính sách, cả về chính sách tài khóa và tiền tệ mà về cơ bản, hướng vào việc hỗ trợ tăng trưởng.
"Ví dụ, chúng ta nói đến nới lỏng chính sách tiền tệ, giảm lãi suất, tăng cung tiền. Đối với chính sách tài khóa, có điểm khác biệt là vấn đề liều lượng, là tương quan giữa rủi ro và liều lượng (liều lượng quá mức thì tăng rủi ro). Thế nhưng, hiện nay chúng ta đều thống nhất là chính sách tài khóa có dư địa còn khá lớn, nhất là lĩnh vực đầu tư công mà chúng ta hay nói "có tiền mà không tiêu được". Vừa qua, Thủ tướng có nêu rõ mục tiêu giải ngân hơn 710.000 tỷ đồng đầu tư công trong năm nay là phấn đấu đạt 95%. Về nợ công so với mức trần mà Quốc hội đề ra thì hiện nay dư địa còn lớn", ông Thành nhấn mạnh.
Đối với chính sách tiền tệ, theo ông Thành câu chuyện liều lượng bao nhiêu là vừa thì hiện còn nhiều ý kiến khác nhau. Về lãi suất, ông cho rằng có thể giảm từ 1-1,5 điểm phần trăm từ nay đến cuối nay.
Tuy nhiên, vị này cũng lưu ý, chính sách tiền tệ có thể nới lỏng nhưng về nguyên tắc quản trị thì không thể để "đồng tiền dễ dãi".
Nói thêm về dư địa hạ lãi suất từ 1-1,5 điểm phần trăm, ông Thành nêu rõ một số lý do.
Thứ nhất, nới lỏng chính sách tiền tệ để vừa đạt được mục tiêu tăng trưởng tín dụng, đồng thời vẫn kiểm soát được lạm phát theo mục tiêu đề ra.
Thứ hai là liên quan đến tỉ giá. Cách đây 1-2 tuần, có thời điểm tỉ giá đồng Việt Nam tăng mạnh. Như vậy giới hạn của giảm lãi suất không phải chỉ vấn đề huy động tiền gửi mà còn là vấn đề tỉ giá và đằng sau đó là câu chuyện dịch chuyển vốn (giữa đồng Việt Nam và USD).
Thứ ba, trong bất cứ tình huống nào cũng phải bảo đảm an toàn hệ thống. Bên cạnh thanh khoản, nếu đồng tiền trở lên dễ dãi thì mục tiêu hướng đến thúc đẩy tăng trưởng, sản xuất kinh doanh có thể bị ảnh hưởng khi dòng tiền này không đổ vào sản xuất kinh doanh mà "đi chơi tài sản tài chính" – điều này nếu diễn ra quá mức thì sẽ trở thành vấn đề. Cho nên, đây là một thách thức đối với NHNN.
Khẳng định là còn dư địa nới lỏng chính sách tiền tệ, hạ lãi suất, song theo Viện trưởng Viện Nghiên cứu phát triển thương hiệu và cạnh tranh, lãi suất không phải liều thuốc vạn năng mặc dù rất quan trọng, mà cần kết hợp với nhiều chính sách khác như kích cầu tiêu dùng, hỗ trợ người lao động, kích cầu du lịch, đầu tư công, giải quyết khó khăn cho xuất khẩu; tạo điều kiện để người dân và doanh nghiệp tiếp cận vốn tốt hơn (có gói hỗ trợ tín dụng mà không ảnh hưởng lớn đến tổng cung tiền, hướng đến các lĩnh vực như nhà ở xã hội, lâm thủy sản…).
Bổ sung thêm, TS. Cấn Văn Lực - Chuyên gia kinh tế trưởng BIDV cung cấp thêm 3 số liệu để củng cố niềm tin chính sách trong thời gian qua.
Một là cung tiền (M2). Theo tính toán của ông Lực, đến 30/6, cung tiền mới là 2,7%, thấp hơn so với mức 3,8% cùng kỳ năm trước, thấp hơn mức từ 4-5%, thậm chí là 7% của năm 2019. Tức là hiện nay việc cung tiền ra nền kinh tế rất thấp.
Chỉ số thứ hai là vòng quay tiền – yếu tố tác động lạm phát rất rõ. Theo đó, vòng quay tiền 6 tháng đầu năm chỉ 0,67 lần, tức là tương đương vòng quay tiền thấp của cả năm 2022. So với thời kỳ tốt là trên 1, rõ ràng vòng quay tiền chậm. Do đó, chúng ta cũng không lo câu chuyện lạm phát. Tất nhiên từ đây đến cuối năm, lượng cung tiền được tung ra, vòng quay tiền nhanh hơn một chút, nhưng rõ ràng không quá quan ngại, theo ông Lực.
Cuối cùng, mặt bằng giá cả của cả thế giới và Việt Nam năm nay về cơ bản tương đối ổn định. Và lạm phát của thế giới đang giảm, dẫn đến hiện tượng gọi là "nhập khẩu lạm phát" của Việt Nam từ bên ngoài. Việc này cũng không đáng ngại. Lạm phát của Việt Nam có lẽ chỉ ở mức độ khoảng 3,5-4% là cùng.
"Hết sức yên tâm câu chuyện lạm phát, để chúng ta yên tâm phục hồi và kích thích tăng trưởng", ông Lực nhấn mạnh.
Linh hoạt hơn điều kiện cho vay, linh hoạt hơn chứ không hạ chuẩn
Cũng theo ông Lực, trong 6 tháng vừa qua, tín dụng chỉ tăng trường 4,73% (đến 30/6) và thực tế đến hôm nay chỉ còn tăng xoay quanh 4% - tức là đã giảm bớt. Có nghĩa là tín dụng tăng thấp, ngân hàng muốn đẩy ra cũng rất khó, chứng tỏ khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế rất thấp.
Để doanh nghiệp tăng khả năng sản xuất, đáp ứng được điều kiện vay vốn, chuyên gia Kinh tế trưởng BIDV cho rằng có 4 vấn đề "nho nhỏ" nhưng rất quan trọng, đòi hỏi nỗ lực từ cả các phía.
Thứ nhất là mặt bằng lãi suất. Ông nghĩ, hệ thống ngân hàng sẽ tiếp tục giảm như Thủ tướng đã chỉ đạo, cũng là tăng kích cầu.
Thứ hai là linh hoạt hơn điều kiện cho vay, linh hoạt hơn chứ không hạ chuẩn. Ví dụ trước đây tài sản thế chấp phải là nhà cửa, phải là bất động sản nhưng bây giờ có thể là "động sản" như hàng tồn kho, hay là đơn hàng tương lai, hợp đồng ký hợp tác với nhau…
Thứ ba là bản thân doanh nghiệp cũng cần có những chuyển đổi, tái cơ cấu, hồ sơ minh bạch hơn, và đặc biệt chứng minh có thể trả nợ trong tương lai, chứng minh được nỗ lực của mình.
Cuối cùng là thay đổi sự trì trệ ở bộ phận công chức, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, nhất là về pháp lý.
Vui lòng nhập nội dung bình luận.