Trước tình hình quân Pháp triển khai Kế hoạch mang tên Tổng chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương Henri Navarre (gọi tắt là Kế hoạch Navarre), hội nghị Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã thảo luận và thông qua kế hoạch tác chiến Đông Xuân 1953-1954. Sau khi Đại tướng Võ Nguyên Giáp trình bày báo cáo kế hoạch tác chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: "Địch tập trung quân cơ động để tạo nên sức mạnh...! Ta buộc chúng phải phân tán binh lực thì sức mạnh đó không còn...". Người nêu rõ nguyên tắc chỉ đạo chiến lược và chỉ đạo tác chiến là: Tập trung lực lượng mở những cuộc tiến công vào những hướng chiến lược mà ở đó địch tương đối yếu nhưng vì quan trọng nên chúng không thể nào bỏ được, buộc chúng phải bị động phân tán lực lượng.
Kết luận Hội nghị, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Hướng Tây Bắc sẽ là hướng chính, các hướng khác là phối hợp. Tuy nhiên, trong hoạt động có thể thay đổi tùy theo tình hình.
Thực hiện chủ trương chiến lược này, từ ngày 19/11 đến 23/11/1953, Tổng Quân ủy và Bộ Quốc phòng triệu tập cán bộ cấp trung đoàn trở lên phổ biến kế hoạch tác chiến Đông Xuân 1953-1954. Phát hiện ta điều động Đại đoàn 316 lên Tây Bắc, ngày 20/11/1953 Tổng chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương Henri Navarre liền cho quân nhảy dù chiếm đóng Điện Biên Phủ. Hội nghị do Tổng Quân ủy và Bộ Quốc phòng chủ trì liền thảo luận ý đồ Pháp đổ quân xuống Điện Biên Phủ và đi đến nhận định: Trước sự uy hiếp của ta, địch đã phải bị động đối phó, phải phân tán một bộ phận lực lượng cơ động lên Điện Biên Phủ để yểm hộ cho Tây Bắc, bảo vệ Thượng Lào, để phá kế hoạch tiến công của ta... Dù địch tình thay đổi thế nào, thì việc quân Pháp nhảy dù xuống Điện Biên Phủ căn bản có lợi cho ta. Ngược lại, nó bộc lộ mâu thuẫn của quân Pháp giữa chiếm đóng đất đai với tập trung lực lượng, giữa chiếm đóng chiến trường rừng núi với củng cố chiến trường đồng bằng.
Theo phương án tác chiến Xuân 1954 đã được Bộ Chính trị thông qua đầu tháng 12 năm 1953, Bộ Tổng Tư lệnh chỉ đạo các hướng triển khai lực lượng, đẩy mạnh tiến công địch. Từ ngày 10 đến 25/12/1953, quân ta tiến công lực lượng địch ở Lai Châu, tiêu diệt 20 đại đội địch, tạo thế uy hiếp mạnh Điện Biên Phủ. Cuối tháng 12/1953, quân ta phối hợp với quân Pa-thét Lào phá tan "tuyến cấm" của quân Pháp ở vĩ tuyến 18, giải phóng nhiều vùng thuộc Trung Lào. Phát triển tiến công, liên quân Việt - Lào và Quân giải phóng Ítxarắc (Campuchia) giải phóng Côngpôngchàm tiến đến sát sông Sơlông, mở hành lang chiến lược nối căn cứ miền Đông và Đông Campuchia với vùng giải phóng Hạ Lào và Trung Lào.
Đến đầu tháng 2/1954, quân ta tiến công địch ở Kon Tum và vùng bắc Tây Nguyên, bước đầu làm thất bại cuộc hành quân Átlăng của quân Pháp; đánh bại hoàn toàn âm mưu bình định vùng tự do Nam - Ngãi - Bình - Phú, góp phần "chia lửa" với chiến trường Điện Biên Phủ. Cuối tháng 1/1954, tại Thượng Lào, liên quân Việt - Lào tiến công, uy hiếp quân địch tại phòng tuyến sông Nậm Hu, giải phóng tỉnh Phôngxalỳ, bao vây Mường Sài.
Các đòn tiến công chiến lược nói trên cùng với các hoạt động của quân và dân ta ở vùng sau lưng địch khiến cho lực lượng cơ động của Pháp bị phân tán trên nhiều hướng, khiến quân Pháp chỉ có thể bố trí tại Điện Biên Phủ 17 tiểu đoàn trong số 52 tiểu đoàn cơ động, và 20 tiểu đoàn để giữ vùng đồng bằng Bắc Bộ rộng lớn.
Chiến lược gia người Phổ Clausewitz từng viết "Khi xây dựng kế hoạch chiến tranh, trước tiên chúng ta phải tìm cách nhận ra các trọng tâm sức mạnh của kẻ thù và giảm thiểu chúng càng nhiều càng tốt chỉ đối với một kẻ thù. Sau đó, chúng ta phải nỗ lực tập hợp tất cả các lực lượng có thể được sử dụng ở đó để có hành động quyết định chống lại trọng tâm duy nhất này. Đối chiếu với thực tế chiến trường Việt Nam lúc đó, chính Phó Tổng Giám đốc Quỹ Nghiên cứu chiến lược (Pháp) Jean-François DAGUZAN phải thừa nhận: "Việt Minh đã áp dụng nguyên tắc này ở Điện Biên Phủ theo đúng nghĩa, nhưng đối với phía Pháp, lại là sự đảo ngược".
Ngay tại chiến trường Điện Biên Phủ, bộ đội ta tổ chức lực lượng và thế trận vây hãm toàn bộ tập đoàn cứ điểm, bao vây từng trung tâm đề kháng. Bộ đội ta xây dựng trận địa của bộ binh, xây dựng trận địa cho pháo binh trên sườn núi, sườn đồi; xây dựng Sở chỉ huy chiến dịch, Sở chỉ huy các đại đoàn, trung đoàn trong lòng đất để bảo đảm an toàn cho quân ta cũng như để thông tin chỉ huy không bị gián đoạn. Bộ đội ta còn bố trí pháo cao xạ để chặn tiếp tế hàng không của đối phương và bảo vệ đường tiếp tế vận tải của ta.
Quân ta sáng tạo ra cách bao vây đánh lấn; đào hệ thống công sự, giao thông hào, chiến hào lấn dần lô cốt, trận địa đối phương "đảm bảo được việc cơ động lực lượng và chiến đấu liên tục ngày đêm, bảo đảm sinh hoạt của bộ đội trong điều kiện không quân và pháo binh địch đánh phá cực kỳ ác liệt".
Trong khi quân ta ngày càng siết chặt vòng vây, quân Pháp không thể tăng cường lực lượng cho chiến trường Điện Biên Phủ, vì lực lượng cơ động đã bị ghìm chặt trên những địa bàn chiến lược. Phối hợp với Điện Biên, quân và dân ta tổ chức những trận đánh vào các sân bay Gia Lâm (Hà Nội), Cát Bi (Hải Phòng), ngăn chặn cầu hàng không tiếp tế cho Điện Biên Phủ. Điều đó cho thấy sự phối hợp nhịp nhàng giữa chiến trường chính Tây Bắc - Điện Biên Phủ với các chiến trường khác, đã tạo thế bao vây, tiến công liên tục, đẩy đối phương đi tới thất bại. Các nhà nghiên cứu chiến lược phương Tây nhận xét: hiệu quả chiến lược nổi bật của trận Điện Biên Phủ là lần đầu tiên từ khi xâm chiếm Việt Nam, "Pháp phải rút quân và Việt Minh vẫn làm chủ chiến trường".
Như vậy, trong chiến dịch Điện Biên Phủ, quân và dân ta đã thực hiện đúng sự chỉ đạo chiến lược: "đánh chắc thắng; đánh tiêu diệt; giữ vững thế chủ động, kiên quyết tiến công", "Chiến dịch này là một chiến dịch rất quan trọng ...phải tập trung hoàn thành cho kỳ được". Chúng ta đã phát triển nghệ thuật thu hút, giam chân lực lượng cơ động của quân Pháp, phân tán địch trên các chiến trường, giải phóng nhiều vùng rộng lớn và đặc biệt bao vây chặt quân Pháp tại tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, đánh thẳng vào chỗ mạnh nhưng có nhiều sơ hở" của đối phương, chính người Pháp sau này phải thừa nhận: "đối thủ (Việt Minh) yếu hơn về số lượng đã bẻ cong ý chí của đối phương bằng cách dựa vào điểm yếu của đối phương.
Bài học kinh nghiệm quý báu trên đã được tiếp thu và vận dụng trong cuộc chiến tranh giải phóng, được kế thừa và phát triển trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc sau này và sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc hiện nay và mai sau.