Cặp "bài tẩy" mới của HLV Kim Sang-sik tại ĐT Việt Nam gồm những ai?
ĐT Việt Nam vừa chào đón 2 tân binh sinh năm 2000, là Khổng Minh Gia Bảo và Nguyễn Trần Việt Cường
Báo điện tử của Trung ương Hội Nông dân Việt Nam
Tổng biên tập: Nguyễn Văn Hoài
Phó Tổng Biên tập: Phan Huy Hà (Thường trực), Lưu Phan, Đỗ Thị
Sâm, Hoàng Sơn
Giấy phép hoạt động báo điện tử số 115/GP-BTTTT do Bộ TT-TT cấp ngày 01/3/2022 và giấy phép sửa đổi, bổ sung số 55/GP-BVHTTDL do Bộ VHTTDL cấp ngày 11/6/2025
Bản quyền thuộc về Báo điện tử Dân Việt.
Mọi hình thức sao chép lại thông tin, hình ảnh phải được sự đồng ý bằng văn bản .
Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận
Xin chào, !
Bạn đã đăng nhập với email:
Đăng xuất

Từ ngày 1/1/2025, Thừa Thiên- Huế chính thức trở thành Thành phố trực thuộc Trung ương thì Huế phải nghĩ khác, nói khác làm khác chứ? - Tôi mở đầu câu chuyện với Giám đốc Sở Văn hóa và Thể thao TP.Huế Phan Thanh Hải.
Ông Hải chia sẻ ngay: Khác chứ! Huế trở thành thành phố thứ 6 trực thuộc Trung ương (sau Hà Nội, TP.HCM, Đà Nẵng, Hải Phòng và Cần Thơ) là bước ngoặt mang tính lịch sử.
Đây cũng chính là thời cơ và động lực phát triển mới cho địa phương, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống, kiến tạo hình ảnh đô thị thông minh, hiện đại, bảo đảm thực hiện tốt hơn nhiệm vụ bảo tồn, phát huy giá trị di sản Cố đô và bản sắc văn hóa, để Huế thực sự trở thành trung tâm của vùng và cả nước về văn hóa- du lịch, y tế chuyên sâu, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ.

Nhưng thành phố sẽ phát triển mô hình kinh tế theo hướng nào, thưa ông?
- Thành phố Huế định hướng phát triển mô hình kinh tế di sản gắn với du lịch và công nghiệp văn hóa, một hướng đi vừa mang bản sắc riêng, vừa phù hợp với xu thế phát triển bền vững. Nền tảng kinh tế của Huế được xây dựng trên ba trụ cột chính: kinh tế du lịch, kinh tế di sản và kinh tế tuần hoàn. Trong đó, di sản không chỉ được xem là “tài sản quá khứ” mà còn là “nguồn vốn sống”, có thể sinh lợi thông qua khai thác du lịch văn hóa, cảnh quan, đô thị và sinh thái.
Ngay từ năm 2020, khi còn là TT- Huế, Sở đã có quy định: Cán bộ, công chức của Sở sẽ mặc áo dài truyền thống khi đi làm việc; trong đó nữ mặc áo dài tím, nam mặc áo dài ngũ thân; quy định áp dụng vào ngày thứ Hai đầu mỗi tháng, đây là ngày tổ chức lễ chào cờ tập trung toàn cơ quan. Nay câu chuyện áo dài có thực hiện không?
- Từ 2020 đến nay vẫn áp dụng đều đặn và sẽ tiếp tục truyền thống này anh ạ. Không chỉ thế, các dịp lễ hội, nghi thức truyền thống Sở đều khuyến khích mọi người mặc trang phục truyền thống, vì vậy nay đã lan tỏa ra toàn xã hội.
Và rồi cuộc trao đổi của tôi với Giám đốc Sở Văn hóa và Thể thao TP.Huế Phan Thanh Hải về di sản văn hóa Huế: Cả vật thể và phi vật thể. Bởi đó là những thứ làm nên xứ Huế luôn cuốn hút tao nhân mặc khách thập phương.





Khi đến Huế không khó để du khách có thể nhận ra một đặc tính của người Huế là nhẹ nhàng, tinh tế trong giao tiếp và giọng nói thì không lẫn vào đâu được. Tất cả những những điều này đã làm nên nét đặc trưng của văn hóa Huế. Theo ông, điều gì làm nên nét riêng của Huế so với các địa phương khác trong vùng Trung- Nam Trung Bộ?
- Huế không chỉ là một thành phố, mà là một sinh thể văn hóa được hình thành từ nhiều lớp trầm tích chồng xếp qua thời gian, hòa quyện thành cốt cách riêng: Trầm mặc, sâu lắng và tinh tế.
Trước hết là trầm tích địa- văn hóa. Dải đồng bằng hẹp giữa Trường Sơn- Bạch Mã và biển Đông tạo nên thế đất vừa kín đáo vừa mở. Núi Ngự là Tiền án của kinh thành, sông Hương là yếu tố Minh đường uốn lượn ôm lấy thành phố rồi đổ về đầm phá Tam Giang- Cầu Hai, hệ đầm phá lớn nhất Đông Nam Á. Không gian “nửa sơn, nửa thủy” ấy khiến nhịp sống Huế tự nhiên chậm lại, dịu lại, như bước chân qua cầu Trường Tiền trong buổi chiều sương khói.
Tiếp đến là trầm tích lịch sử- chính trị. Từ Thuận Hóa- Phú Xuân thế kỷ XVII đến kinh đô triều Nguyễn (1802- 1945), Huế từng là trung tâm quyền lực hơn một thế kỷ rưỡi. Di sản của thời vàng son ấy không chỉ là cung điện, lăng tẩm, mà còn là tinh thần mực thước, cốt cách hoàng gia, thấm vào nếp sống con người nơi đây.
Cuối cùng là trầm tích giao lưu- tiếp biến. Là điểm gặp của người Việt, Chăm, Hoa, Nhật và phương Tây, Huế biết cách hóa giải khác biệt bằng nghệ thuật tiết chế, giữ được vẻ thanh nhã và cân bằng giữa cũ- mới, Đông- Tây.
Tất cả làm nên “độ lắng Huế”: Nhã trong ứng xử, kỷ cương trong lễ nghi, hàm súc trong ngôn từ, cộng cảm trong tình người. Những phẩm tính ấy được nuôi dưỡng bởi cảnh quan sông núi, khí hậu mưa nhiều, nhịp sống chậm và bề dày học thuật của một kinh đô xưa. Huế vì thế không chỉ là di sản vật chất, mà là ký ức sống của văn hóa Việt, nơi quá khứ và hiện tại vẫn đối thoại bằng những thanh âm trầm, sâu và bền lâu.
Văn hóa “cung đình Huế” đóng vai trò thế nào trong việc kiến tạo hệ giá trị, thẩm mỹ và phong cách cư xử của người Huế, cả tầng lớp tinh hoa lẫn bình dân, theo ông?
- Văn hóa cung đình thời Nguyễn, kéo dài từ các chúa Nguyễn đến khi triều đại kết thúc (1636- 1945), là hệ giá trị chuẩn mực bao trùm lễ, nhạc, kiến trúc, ẩm thực và phong tục. Không chỉ định hình nghi lễ triều đình, nó còn lan tỏa xuống dân gian, trở thành nền nếp ứng xử, thẩm mỹ và cốt cách của người Huế.
Trong cung đình, lễ và nhạc là nền tảng trật tự. Nhã nhạc cung đình Huế không chỉ là nghệ thuật giải trí, mà là biểu tượng của uy quyền và hòa điệu giữa con người với vũ trụ. Âm thanh khoan thai, trang nghiêm phản chiếu tinh thần “quân tử chi nhạc”. Kiến trúc kinh thành, các nghi lễ và màu sắc đều tuân theo quy luật phong thủy, thể hiện triết lý “thiên- địa- nhân hợp nhất” và bảng ngũ sắc Huế: vàng uy nghi, đỏ cát tường, trắng thuần khiết, xanh lục sinh sôi, tím Huế trầm mặc.
Cái đẹp của văn hóa cung đình là vẻ đẹp của chuẩn mực và tiết chế - “tinh mà không lòe”, “đẹp vì đúng mực”. Mỗi mái ngói cong, câu đối khắc, hay món ăn bày biện đều toát lên tinh thần hướng nội, thanh nhã.
Điều đáng quý, cái “nhã” ấy không khép kín trong hoàng thành mà thấm vào đời sống dân gian: tà áo dài thướt tha, nón bài thơ nghiêng, giọng Huế nhỏ nhẹ, điệu hò mái nhì, chén chè sen thanh khiết. Người Huế vẫn giữ nét trọng lễ, trọng danh dự, ôn hòa và chừng mực.
Vì thế, văn hóa cung đình Nguyễn không chỉ là di sản quá khứ, mà là dòng mạch âm thầm nuôi dưỡng bản sắc Huế hôm nay - vẻ đẹp thanh tịnh, quý phái mà gần gũi, như nụ cười kín đáo của người con xứ Thần Kinh.


Thiên nhiên, đất trời Huế cũng có những nét rất riêng. Trước hết chúng ta bàn về “Mưa Huế”. Nhiều người nghĩ mưa ở đâu mà chẳng như nhau. Nhưng thực sự không phải thế. Mưa Huế rất buồn. Không gian thì vắng vẻ, nhịp sống chậm, cỏ cây lúp xúp, xa xa là những thành quách đền đài rêu phong như thể được bao phủ bởi màn mưa dai dẳng.
Nhà thơ Nguyễn Bính đã phải thốt lên: “Trời mưa ở Huế sao buồn thế/ Cứ kéo dài ra đến mấy ngày…”. Ông có thể nói thêm gì về mưa Huế?
- Ở Huế, mưa không chỉ là hiện tượng thời tiết mà là nhịp điệu của không gian, hơi thở của đất trời, và bản sắc con người. Những cơn mưa dài và dai dẳng, phần vì dãy Bạch Mã chắn gió mùa Đông Bắc, khiến mây dừng lại, trút xuống những trận mưa miên man.
Khi trời bắt đầu đổ, thời gian như chậm lại. Thành phố chìm trong làn nước trắng đục, cỏ cây lúp xúp, tiếng chuông chùa ngân xa, những mái ngói rêu phong ẩn hiện trong sương. Mưa làm nhòe ranh giới giữa ngày và đêm, giữa thực và mộng, khiến con người hướng nội, trầm tĩnh và cẩn trọng hơn trong từng nếp sống. Mưa Huế buồn mà thẳm sâu. Nó tẩy bụi đời sống, làm xanh lại vườn cau, mát nếp nhà cũ, và quan trọng hơn, hun đúc trong người Huế đức kiên nhẫn, lòng sẻ chia, tinh thần gắn bó, biết chống lũ và dựng lại sau mỗi mùa mưa.
Chỉ cần một lần đi qua Huế những ngày mưa sẽ hiểu: đó là “đặc sản tâm hồn”, một nỗi buồn thanh khiết khó cắt nghĩa. Nỗi buồn ấy đi vào thơ nhạc như một ám ảnh dịu dàng: Nguyễn Bính từng viết: “Tràng Tiền vắng ngắt người qua lại/ Đập Đá mênh mang bến nước đầy…”; Nguyễn Duy nhớ: “Tôi về xứ Huế chiều mưa/ Em ơi áo trắng bây giờ ở đâu…”; còn Đồng Đức Bốn thì thổn thức: “Chiều mưa phố Huế một mình/ Biết đâu là chỗ ân tình đến chơi”. Trong âm nhạc, “Mưa trên phố Huế” của Minh Kỳ suốt hơn nửa thế kỷ vẫn làm người nghe xao xuyến: “Chiều nay mưa trên phố Huế/ Biết ai đã quên ai rồi…”.
Mưa Huế, giữa thực tại và thi ca, vừa là thử thách, vừa là ân huệ. Nó gột rửa, thanh lọc, làm cho con người lắng lại, sâu hơn, nhân hậu hơn. Huế không thể thiếu mưa, như người Huế không thể thiếu những khoảng lặng trong tâm hồn.


Trong rất nhiều danh lam thắng cảnh nổi tiếng trong văn học nghệ thuật như thôn Vĩ Dạ, Chợ Đông Ba, chùa Thiên Mụ, đền đài lăng tẩm thì sông Hương vẫn là cái tên như một biểu tượng được nhắc đến, có lẽ, nhiều nhất: Tên các tổ chức, công ty của những người con Huế xa quê, các hội, đoàn... thường mang tên Sông Hương. Theo ông thì sông Hương có ý nghĩa như thế nào với người Huế và những người con xứ Huế xa quê?
- Từ bao đời, sông Hương được xem là linh mạch của đất cố đô, là trục kết nối không gian văn hóa từ Kinh thành, Hoàng thành đến những làng vườn xanh thẳm hai bờ. Dòng sông ấy không chỉ chia đôi thành phố, mà còn dung hòa hai phần âm - dương trong quy hoạch đô thị từ thế kỷ XVII, biểu tượng cho sự hòa quyện giữa thiên nhiên và con người.
Trên đôi bờ ấy, biết bao ký ức tập thể đã neo lại: cưới hỏi, rước lễ, hội hè, thuyền ca... Với người xa xứ, hai tiếng “Hương - Ngự” là địa chỉ của nỗi nhớ. Chỉ cần nghe tên, đã thấy hiện lên dòng nước trong, cầu Trường Tiền, bãi bồi, hàng tre gió thổi. Sông Hương vừa là cảnh quan, vừa là “ngôn ngữ chung” để người Huế nhận ra nhau và tìm về cội nguồn.
Nhà thơ Bùi Giáng từng viết: “Dạ thưa xứ Huế bây giờ/ Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương”. Câu thơ tưởng giản dị mà chan chứa hồn xứ sở - trong cách xưng hô mềm mại “dạ thưa”, trong sự hòa điệu của ba thanh âm “Huế - Ngự - Hương”, gợi nên cảm giác vĩnh cửu. Cặp đôi sông Hương - núi Ngự còn trở thành biểu tượng trong âm nhạc: “Người ơi, nếu còn vầng trăng soi dòng Hương/ Núi Ngự còn thông reo chiều buông, tôi vẫn còn thương”.
Văn chương và âm nhạc cùng gặp nhau nơi cảm hứng ấy. Hoàng Phủ Ngọc Tường ví dòng Hương như người thiếu nữ dịu dàng, khi trữ tình, khi mãnh liệt; còn Trần Hữu Pháp để dòng sông chảy qua tâm hồn: “Dòng sông ai đã đặt tên/ để người đi nhớ Huế không quên”.
Từ sông Hương đến thôn Vỹ Dạ, Huế hiện lên như miền biểu tượng của thi ca, nơi cảnh và người hòa làm một, để mỗi khi nhắc đến, lòng người lại dậy lên âm sắc mơ màng, sâu lắng, như chính dòng Hương lững lờ trôi giữa lòng cố đô.

Nói đến Huế, không thể không nói đến áo dài Huế, chiếc nón bài thơ. “Áo em trắng hỡi thuở tìm em không thấy/ Nắng mênh mang mấy nhịp Trường Tiền/ Nón rất Huế mà đời không phải thế/ Mặt trời lên từ phía nón em nghiêng” (Tạm biệt Huế- Thu Bồn). Ông nghĩ gì về tà áo tím và nón bài thơ rất đặc trưng của xứ Huế?
- Áo dài vốn sinh ra từ Huế, được xem là tinh hoa hội tụ giữa vẻ đẹp hình thể Việt và tâm hồn Á Đông. Năm 1744, chúa Nguyễn Phúc Khoát đã định chế áo dài làm thường phục cho cư dân Đàng Trong, mở đầu cho hành trình hơn hai thế kỷ của một biểu tượng. Áo dài ở Huế không đơn thuần là trang phục, đó là mỹ học của “đường nét và độ rơi”: Kín đáo mà duyên dáng, ít lời mà sâu. Đường cong tà áo, độ buông nhẹ nơi gấu vải, cái nghiêng của cổ áo, tất cả như thể hiện một thứ ngôn ngữ thẩm mỹ đặc trưng của vùng đất trầm tĩnh và tinh tế.
Tím Huế hay trắng học trò đều là gam màu của ký ức, nhẹ như sương, mềm như khói, gắn liền với thiên nhiên dịu dàng của miền đất mưa. Mỗi tà áo bước ra từ phố cổ, mỗi nón bài thơ nghiêng dưới hàng phượng đều chở theo nét duyên thầm của người con gái Huế. Nón bài thơ, với hai lớp lá khéo léo giấu bên trong những câu thơ và họa tiết, là “mật mã lãng mạn” của xứ sở, nơi cái đẹp không cần phô trương mà vẫn ám ảnh lòng người.
Hôm nay, những biểu tượng ấy không chỉ còn là hoài niệm. Chúng đã trở thành tài sản văn hóa, sáng tạo đương đại: Từ các lễ hội áo dài bên dòng Hương, những cuộc trình diễn thiết kế kết hợp nghệ thuật truyền thống và thời trang hiện đại, cho tới sản phẩm du lịch - văn hóa đặc trưng, giáo dục thẩm mỹ trong trường học, và cả nhận diện thương hiệu của Huế trên bản đồ văn hóa Việt Nam. Áo dài và nón bài thơ, giản dị mà diễm lệ, chính là cách Huế kể câu chuyện về mình: nhẹ nhàng, tinh tế và đầy tự hào.

Người con gái Huế vừa nhẹ nhàng, e lệ, nhưng lại đài các, kiêu sa. Ông có thể nói kỹ hơn về tính cách người Huế qua hình ảnh “người con gái Huế” không?
- Hình ảnh thiếu nữ Huế, trong suốt nhiều thế kỷ, luôn gợi một vẻ đẹp nhiều tầng, nhiều nghĩa, như được gói trong ba lớp tinh tế. Thứ nhất là lớp thanh- kín- hàm, kết tinh của văn hóa cung đình thấm vào dân gian. Trong bước đi, giọng nói, nụ cười, đều có cái giữ chừng mực, không phô trương mà sâu sắc. Đó là thứ duyên của người biết tiết chế, “nói ít mà tình nhiều”, của nếp sống được nuôi dưỡng giữa không gian trầm mặc của kinh đô xưa.
Thứ hai là lớp mềm- bền- nhẫn, phản chiếu đức tính được tôi luyện qua bao mùa mưa lũ và đời sống tiết kiệm. Trong gian khó, người phụ nữ Huế vẫn giữ được dáng vẻ ung dung, biết chắt chiu, biết đứng lên từ mất mát. Chính những thử thách của thiên nhiên và lịch sử đã tạo nên phẩm chất bền bỉ, chịu thương chịu khó - một nét đẹp thầm lặng mà sâu gốc rễ.
Lớp thứ ba là hiện đại- chủ động- có nghề. Thiếu nữ Huế hôm nay không chỉ e ấp trong tà áo dài mà còn là lực lượng trụ cột của các làng nghề truyền thống, dịch vụ du lịch, y tế và giáo dục. Họ là bác sĩ, cô giáo, nghệ nhân, hướng dẫn viên, những người vừa gìn giữ tinh hoa cũ, vừa làm mới giá trị Huế trong thời đại toàn cầu hóa.
Đằng sau vẻ e ấp là trí tuệ thực hành, là năng lực tổ chức gia đình và cộng đồng. Văn chương có thể phóng đại nỗi sầu, nhưng trong đời thực, người con gái Huế mạnh mẽ hơn nhiều: biết học, biết làm, biết giữ nếp mà không ngại đổi mới. Chính họ là nhịp cầu nối giữa quá khứ và hiện tại, giữa chất Huế cổ điển và tinh thần Huế đương đại, vừa dịu dàng vừa kiên cường, vừa truyền thống vừa hiện đại.


Xứ Huế sản sinh ra rất nhiều nhân sĩ, trí thức như Đại thần Tôn Thất Thuyết, Nguyễn Tri Phương, Đặng Huy Trứ, Giáo sư, Viện sĩ Nguyễn Khánh Toàn, nhà thơ Tố Hữu; rồi thì nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm... Họ đều là những người tài năng và nặng lòng với quê hương, đất nước. Tuy không thể nói hết về họ nhưng có một người mà chúng ta không thể không nhắc đến, đó là nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Ông có thể phân tích kỹ hơn về chất Huế trong nhạc Trịnh Công Sơn không?
- Trịnh Công Sơn là một con người “rất Huế”. Âm nhạc của ông mang trong mình ba “gam Huế”: U tịch, nhân ái, minh triết. “U tịch” là không gian trầm mặc của mưa, sông, vườn, ba yếu tố tạo nên nhịp thở của xứ Huế. Tiếng mưa trong nhạc Trịnh không chỉ là âm thanh thiên nhiên mà là tiếng vọng của lòng người, chậm rãi, thấm sâu, khiến mỗi nốt nhạc như tan vào không gian. Bóng dáng sông Hương, vườn xưa, ngõ nhỏ không chỉ hiện lên như phông nền mà như phần tâm thức, tạo nên một thế giới âm thanh vừa buồn vừa trong, vừa thực vừa mộng.
“Nhân ái” là gam màu thứ hai, biểu hiện trong nỗi trắc ẩn vô đối với thân phận con người. Dưới ngòi bút Trịnh, con người dù nhỏ bé, cô đơn hay khổ đau vẫn được nhìn bằng ánh mắt thương yêu. “Hãy yêu ngày tới dù quá mệt kiếp người”- lời ca ấy là minh chứng cho niềm tin dịu dàng vào con người, vào khả năng cảm thông và cứu rỗi bằng tình thương.

Và “minh triết” là tầng sâu của nhạc Trịnh, nơi tư tưởng Phật- Lão hòa quyện trong suy tư về vô thường, sinh diệt, cát bụi. “Bao nhiêu năm làm kiếp con người, chợt một chiều tóc trắng như vôi”- đó không chỉ là lời ca, mà là chiêm nghiệm. Trong “một cõi đi về”, Trịnh Công Sơn không giảng đạo, ông hát như một người đã thấu hiểu lẽ vô thường bằng nụ cười nhẹ nhàng của Huế.
Ngôn ngữ tiết chế, giai điệu chậm, khoảng lặng nhiều, chính là “thẩm mỹ Huế” chuyển thành âm thanh. Những ca khúc tình như “Diễm xưa”, “Biển nhớ” hay những bản triết ca như “Cát bụi”, “Để gió cuốn đi” đều thấp thoáng bóng dáng sông Hương, mưa Huế và phong vị thiền - đạo. Nhưng điều kỳ diệu là, dù mang đậm chất Huế, âm nhạc Trịnh vẫn chạm được đến trái tim mọi người ở mọi miền, bởi cái buồn của Huế trong nhạc Trịnh chính là nỗi buồn nhân loại: sâu, hiền, và đầy thương yêu.
Còn nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm thì sao, thưa ông?
- Không chỉ là tác giả của “Đất Nước”, một trong những thi phẩm mang tầm khái quát sâu sắc nhất của văn học Việt Nam hiện đại, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm còn là một nhà quản lý, nhà kiến tạo chính sách văn hóa có ảnh hưởng lớn đối với quá trình bảo tồn và phát triển văn hóa ở Huế cũng như cả nước. Ở ông, thơ và chính sách gặp nhau ở một điểm: Niềm tin bền bỉ vào sức mạnh của bản sắc dân tộc.
Trong hành trình làm quản lý văn hóa, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm luôn kiên định với quan điểm: Văn hóa không chỉ là “nền tảng tinh thần” mà còn là động lực phát triển. Ông cổ vũ việc khơi dậy giá trị bản sắc, nâng vị thế văn hóa trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội, và đặc biệt khuyến khích những mô hình kết hợp giữa lễ hội- sáng tạo- giáo dục truyền thống. Tư duy đó đã góp phần hình thành cách tiếp cận mới về “phát triển văn hóa bền vững”, một hướng đi mà ngày nay các đô thị di sản như Huế đang kế thừa và mở rộng.
Ở Huế, tên tuổi Nguyễn Khoa Điềm gắn liền với một thế hệ trí thức chọn cách “trả nợ quê hương” bằng tri thức và sáng tạo. Họ là những người đem ngòi bút và tầm nhìn của mình để kiến tạo không gian văn hóa mới, nơi di sản không chỉ được bảo tồn, mà còn sống trong đời sống đương đại.
Nguyễn Khoa Điềm, bằng cả tư duy chính trị và tâm hồn thi sĩ, đã chứng minh rằng: phát triển văn hóa không chỉ là giữ gìn cái đã có, mà còn là thắp lên niềm tự hào, niềm tin và khát vọng sáng tạo cho cộng đồng.


Đầu cuộc trò chuyện này ông nói nền tảng kinh tế của thành phố dựa trên 3 trụ cột là kinh tế du lịch, kinh tế di sản, kinh tế tuần hoàn. Vậy, vai trò của “kinh tế di sản” trong mô hình tăng trưởng mới của Huế sẽ là gì?
- Kinh tế di sản sẽ trở thành trục chiến lược trong mô hình tăng trưởng mới của Huế, nơi di sản không chỉ được bảo tồn, mà còn được “kích hoạt” để tạo ra giá trị kinh tế, việc làm và bản sắc đô thị. Đây là mô hình phát triển dựa trên tài sản văn hóa, sáng tạo, gắn với các ngành có lợi thế cạnh tranh tự nhiên của Huế như ẩm thực, thời trang áo dài, thủ công truyền thống, tổ chức sự kiện, du lịch cảnh quan và công nghệ số.
Khi các lĩnh vực này được liên kết trong một hệ sinh thái “kinh tế di sản”, chúng không chỉ bảo tồn giá trị truyền thống mà còn nâng năng suất tổng hợp thông qua thương hiệu văn hóa Huế, một thương hiệu mang tính nhận diện quốc gia và quốc tế.
Chính quyền thành phố đóng vai trò kiến tạo thể chế, hình thành “không gian thử nghiệm chính sách” (sandbox di sản) nhằm khuyến khích các mô hình kinh doanh sáng tạo, đầu tư theo hình thức đối tác công- tư (PPP), phát triển dữ liệu mở về di sản, tiêu chuẩn thiết kế đô thị lịch sử, và các chỉ số phát triển văn hóa số.
Nhờ đó, doanh nghiệp, nghệ nhân và cộng đồng có thể cùng tham gia đầu tư, khai thác di sản một cách bền vững, biến văn hóa thành động lực tăng trưởng thực sự. “Kinh tế di sản” vì thế không chỉ là một khái niệm, mà là con đường để Huế vừa giữ hồn cốt xưa, vừa bước vào tương lai bằng năng lực sáng tạo của chính mình.

Như vậy, có thể hiểu “tính đáng sống” ở Huế được thể hiện qua sự kết hợp hài hòa giữa di sản văn hóa và nhịp sống hiện đại, với nỗ lực bảo tồn di sản, cải thiện môi trường, phát triển kinh tế, văn hóa, giáo dục và các không gian xanh. Vậy, làm sao để đo lường “tính đáng sống” trong đô thị di sản?
- Việc kết hợp bộ chỉ số OWHC (livability), đánh giá khả năng đáng sống của đô thị di sản thế giới, với bộ tiêu chí UNESCO/HUL (Historic Urban Landscape) và bộ chỉ số đô thị thông minh Việt Nam mở ra một hướng tiếp cận toàn diện và hiện đại trong phát triển đô thị Việt Nam. Cách tiếp cận này không chỉ quan tâm đến hạ tầng và công nghệ, mà còn đề cao chất lượng sống, bản sắc văn hóa và sự hài hòa giữa con người, thiên nhiên, di sản.
Cụ thể, bộ chỉ số tích hợp cần tập trung vào các nhóm tiêu chí then chốt như: chất lượng không gian công cộng ven sông, đảm bảo người dân được tiếp cận và sử dụng bền vững các không gian xanh, sinh thái; bảo tồn và thích ứng di sản trong quá trình phát triển đô thị, tránh tình trạng “bê tông hóa” di sản; giao thông chậm (walkability), nhằm khuyến khích đi bộ, xe đạp và phương tiện xanh, giảm ô nhiễm, tăng tương tác cộng đồng.
Bên cạnh đó, cần chú trọng đến tỷ lệ cây xanh, mặt nước, xem đây là “lá phổi” của thành phố; chỉ số sức khỏe, giáo dục và văn hóa phản ánh mức độ phát triển bền vững về con người; sinh kế văn hóa, sáng tạo như nghệ thuật, thủ công, thiết kế… góp phần nuôi dưỡng kinh tế tri thức và tạo bản sắc riêng cho đô thị.
Một yếu tố không thể thiếu là mức độ tham gia của cộng đồng trong quy hoạch, bảo tồn và vận hành đô thị, cùng chỉ số hài lòng của cư dân, phản ánh chân thực nhất hiệu quả của các chính sách. Khi được kết nối thành một hệ thống thống nhất, bộ chỉ số tích hợp này sẽ giúp Việt Nam hình thành mô hình đô thị “đáng sống- thông minh- di sản”, cân bằng giữa quá khứ, hiện tại và tương lai.





Khi trao đổi với các thế hệ trẻ người Huế, những người không lớn lên trong môi trường lễ nghi cung đình, ông thấy họ tiếp nhận và gìn giữ “tính Huế” ra sao? Ông có chiến lược nào để giúp kiến tạo bản sắc đó trong cộng đồng trẻ?
- Giới trẻ Huế hôm nay năng động, sáng tạo và nhanh nhạy với công nghệ. Họ làm phim ngắn, thiết kế sản phẩm thủ công, sáng tạo nội dung số, tất cả đều có thể trở thành kênh kể chuyện mới cho văn hóa Huế. Vấn đề không phải là người trẻ có yêu Huế hay không, mà là làm sao “dịch” được di sản và bản sắc Huế sang ngôn ngữ, hình thức, cách tiếp cận của họ.
Cần một nền giáo dục sống động về di sản, nơi Huế không chỉ nằm trong sách giáo khoa hay những bức tường phủ rêu, mà trở thành không gian học tập mở. Các trường, bảo tàng, điểm di tích có thể phối hợp xây dựng “bảo tàng tương tác”, cho phép học sinh khám phá qua trò chơi, thực tế ảo, hay các dự án sáng tạo. Việc quét mã QR để nghe kể chuyện về một công trình, hay tham gia chương trình “số hóa - kể chuyện - trải nghiệm” sẽ giúp người trẻ hiểu di sản bằng cảm xúc thật.
Song song đó, cần phát triển phong trào thanh niên sáng tạo gắn với văn hóa Huế, khuyến khích hình thành các câu lạc bộ áo dài, ẩm thực, nhạc - kịch - thiết kế; tổ chức các cuộc thi sáng tạo logo, video, sản phẩm văn hóa; hỗ trợ các dự án khởi nghiệp mang hơi thở truyền thống. Một hệ sinh thái nghề bản địa cũng nên được xây dựng, với trung tâm ươm tạo startup văn hóa, quỹ học bổng “nghề Huế”, và các chương trình kết nối nghệ nhân - nhà thiết kế - sinh viên.
Khi được tham gia quản trị cộng đồng, tổ chức lễ hội, vận hành phố đi bộ, tour đêm sông Hương, người trẻ sẽ không chỉ gìn giữ “tính Huế” bằng ký ức, mà bằng chính hành động, trí tuệ và khát vọng của mình.
Xin cảm ơn ông vì cuộc trò chuyện này!
ĐT Việt Nam vừa chào đón 2 tân binh sinh năm 2000, là Khổng Minh Gia Bảo và Nguyễn Trần Việt Cường
Theo ghi nhận của phóng viên, tại khu vực khai thác cát của Công ty TNHH Việt Châu (Khu 2, xã Vạn Xuân, Phú Thọ), hàng loạt xe tải và máy xúc “dàn trận” bên bờ sông Hồng và có dấu hiệu sử dụng phương tiện khai thác cát chưa đúng phương pháp được phê duyệt.
Đề xuất mở rộng thuế nhập khẩu của Mỹ với hơn 700 mặt hàng chứa thép đang làm dấy lên lo ngại Việt Nam có thể bị “vạ lây”, khi thép và sản phẩm thép Việt Nam chiếm tới 16% kim ngạch xuất khẩu sang thị trường này.
Triển khai kế hoạch cao điểm 60 ngày đêm, Công an TP Hà Nội đang tiên phong làm sạch dữ liệu đăng ký phương tiện và giấy phép lái xe qua nền tảng số iHanoi, với gần 3.000 hồ sơ được người dân cập nhật chỉ trong vài giờ đầu thực hiện.
"80 năm qua, Ngành Nông nghiệp và Môi trường đã viết nên trang sử vẻ vang cùng với lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc. Trong gian khó, bản lĩnh, ý chí tự lực và tinh thần sáng tạo, khát vọng của những người làm trong lĩnh vực nông nghiệp, tài nguyên và môi trường đã được tôi luyện, hun đúc, trở thành nền tảng vững chắc cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước hôm nay", Bộ trưởng Trần Đức Thắng khẳng định.
Dù đã có vaccine phòng bệnh nhưng trong thời gian qua, bệnh Dại tiếp tục có xu hướng gia tăng tại các địa phương trên cả nước. Nguyên nhân do người bị động vật (chó, mèo) nghi dại cắn không tiêm vaccine hoặc tiêm muộn, không đủ liều.
Nghề dệt thổ cẩm Chăm Mỹ Nghiệp xã Ninh Phước, tỉnh Khánh Hòa đã tạo ra nhiều sản phẩm đa dạng phù hợp với xu thế hiện nay để phục vụ du khách trong và ngoài nước.
Chỉ một ngày sau ca phẫu thuật tại Bệnh viện Đa khoa Vinmec Hạ Long, ông K. - bệnh nhân bị thoát vị vết mổ vùng thắt lưng hiếm gặp - đã hồi phục và được xuất viện.
Mang khối u ác tính nằm tại “điểm tử” hang môn vị và mắc nhiều bệnh nền, cụ bà 80 tuổi tưởng chừng không còn cơ hội sống. Nhưng chỉ sau 1 ngày phẫu thuật nội soi tại Bệnh viện Đa khoa (BVĐK) Vinmec Cần Thơ, bà đã phục hồi ngoạn mục.
Từ những đồi núi hoang sơ, cây cà phê đã bén rễ, sinh sôi, mang lại mùa no ấm, giúp đồng bào dân tộc Sơn La thoát nghèo, làm giàu bền vững.
Suốt cuộc đời chinh chiến, Tào Tháo đối mặt với vô số kẻ thù hùng mạnh như Đổng Trác, Viên Thiệu, Lưu Bị, nhưng tất cả đều không đáng sợ bằng nhân vật này.
Nhận nhiều phần thưởng cao quý, Nhà giáo Nguyễn Văn Hoà vẫn khiêm nhường nói: “May mắn lớn nhất đời tôi là được đứng trên bục giảng".
Rau mì chính, rau Bina Chaya xuất xứ Mexico, rau sắn Nhật là loại rau lạ, chất xơ "la liệt", là các cái tên đang được nhắc đi nhắc lại nghe nhiều tưởng như "đau đầu" ở các diễn đàn "rau nhà tự trồng", các website bán cây cảnh, cây rau giống, các hội nhóm, trang mạng xã hội...Đành rằng, rau mì chính ăn là tốt, rau Bina Chaya có nhiều vi khoáng, rau sắn Nhật ăn ngon, ngọt như mì chính. Nhưng có phải ai cũng ăn, cứ ăn nhiều là hay?
Hai đêm diễn bùng nổ của “ông hoàng Kpop” G-DRAGON tại Ocean City không chỉ khẳng định sức hút của ngôi sao hàng đầu quốc tế, mà còn chứng minh năng lực tổ chức world tour của Việt Nam - một điểm dừng chiến lược mới trên bản đồ âm nhạc toàn cầu. Đằng sau ánh đèn rực rỡ là tầm nhìn và chiến lược dài hạn, khi những tập đoàn tiên phong như Vingroup đang từng bước đặt nền móng cho kỷ nguyên công nghiệp văn hoá và du lịch âm nhạc Việt Nam.
Trước ý kiến của một số đại biểu Quốc hội cho rằng quy định cho phép phạm nhân lưu trữ trứng, tinh trùng "thiếu tính khả thi", Đại tướng Lương Tam Quang, Bộ trưởng Bộ Công an cho biết Chính phủ sẽ nghiên cứu, cân nhắc kỹ lưỡng trước khi trình Quốc hội thông qua.
Hoa hậu Nguyễn Ngọc Kiều Duy đến Nhật Bản chinh phục vương miện Miss International 2025, cuộc thi kéo dài trong vòng 2 tuần.
Công an phường Tân Thành, TP.HCM đã hỗ trợ, giúp đỡ công dân quốc tịch Pháp đoàn tụ với người thân sau hơn 13 năm xa cách.
Đó cũng là ý kiến của ông Nguyễn Đức Hà, nguyên Vụ trưởng Vụ Cơ sở Đảng, Ban Tổ chức Trung ương tại tọa đàm trực tuyến “Góp ý vào Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV của Đảng” với chủ đề “Kiến tạo khát vọng Việt Nam hùng cường”, do Báo Nông thôn Ngày nay/Báo điện tử Dân Việt tổ chức.
Cơ quan công an ở TP. Huế cảnh báo tình trạng nhóm người lạ mặt giả danh đoàn từ thiện để lừa đảo người dân trên địa bàn sau mưa lũ.
Phòng CSGT Công an TP.HCM (PC08) khuyến cáo người dân khẩn trương rà soát và chấp hành đúng quy định về mua, bán, sang tên xe, tránh rủi ro pháp lý và nguy cơ bị phạt đến 12 triệu đồng.
Tại Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV của Đảng đã đặt ra mục tiêu tăng trưởng 2 con số trở lên. Góp ý về vấn đề này, PGS.TS Vũ Sỹ Cường cho rằng, cần phải lường trước thách thức sẽ xảy ra là gì để đưa ra bài toán "đối đáp" hiệu quả.
Ủng hộ việc thu thập thông tin sinh trắc học của phạm nhân, tuy nhiên một số ý kiến đại biểu Quốc hội cho rằng việc cho phép phạm nhân có quyền hiến mô, lưu trữ trứng, tinh trùng là vấn đề phức tạp, cần nghiên cứu kỹ lưỡng hơn trước khi đưa vào luật.
Một cụ ông 85 tuổi ở Pháp dự định lái xe 19km đến phòng khám, nhưng hệ thống GPS đã đưa ông đi nhầm đường hơn 1.500 km, xuyên qua Italy rồi đến tận Croatia.
Hà Nội đầu tư 869 tỷ đồng để xây dựng công trình khẩn cấp để bổ cấp nước cho sông Tô Lịch, giải quyết úng ngập cục bộ khu vực Resco, Ecohome, Ngoại giao đoàn, Tây hồ Tây, Ciputra và lân cận.
Cấp tín dụng không có bảo đảm, cấp tín dụng với điều kiện ưu đãi cho đối tượng hạn chế không đúng quy định pháp luật, đó chỉ là một trong hàng loạt sai phạm tại Ngân hàng TMCP Đông Nam Á – Chi nhánh Thái Nguyên vừa bị Thanh tra Ngân hàng Nhà nước – Chi nhánh khu vực 5 phát hiện.
Serbia có nguy cơ rơi vào thế khó do châu Âu đang chuẩn bị chiến tranh với Nga, Tổng thống Serbia Aleksandar Vučić phát biểu trên kênh Pink TV.
UBND tỉnh Lâm Đồng đã ban hành Lệnh xây dựng công trình khẩn cấp xử lý, khắc phục sạt lở tại đèo D'ran và đèo Gia Bắc với tổng số tiền hơn 9 tỷ đồng.
Không chỉ kiến tạo chuẩn mực sống xanh thời thượng và sống sang bền vững cho cư dân, Vinhomes Wonder City còn là minh chứng sống động khẳng định tầm nhìn đầu tư khác biệt của giới tinh hoa tại phía Tây Hà Nội.
Chiều ngày 10/11, Lễ ra mắt mô hình thí điểm Kiosk thông minh và Hệ thống xác thực, cấp bản sao số tài liệu điện tử được long trọng tổ chức tại Trung tâm Phục vụ hành chính công thành phố Hà Nội (258 Võ Chí Công, Tây Hồ, Hà Nội). Agribank vinh dự là đơn vị tài trợ Kiosk, đồng hành cùng TP Hà Nội nâng cao chất lượng phục vụ hành chính công; hỗ trợ người dân, doanh nghiệp tiếp cận dịch vụ công tiện ích, nhanh chóng, minh bạch; góp phần thực hiện chiến lược chuyển đổi số, cải cách hành chính theo định hướng của Đảng, Nhà nước, Chính phủ.
Xã Hồ Tràm được định hướng phát triển du lịch theo hướng xanh - bền vững - đẳng cấp, góp phần đưa TP.HCM mới trở thành trung tâm du lịch nghỉ dưỡng và chăm sóc sức khỏe hàng đầu của khu vực.