Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận
Khi nhấn đăng nhập đồng nghĩa với việc bạn đã đồng ý với điều khoản sử dụng của báo Dân Việt
Đăng nhập
Họ và tên
Mật khẩu
Mã xác nhận
Đăng ký
Xin chào, !
Bạn đã đăng nhập với email:
Đăng xuất
Tại Diễn đàn Kinh tế xã hội Việt Nam năm 2023, PGS, TS Trần Đình Thiên, nguyên Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam, thành viên Tổ tư vấn Kinh tế của Thủ tướng Chính phủ đánh giá bối cảnh thế giới được khắc họa bằng những đường nét ít lạc quan. Dự báo của Ngân hàng Thế giới về "một thập niên mất mát" (trung hạn, đến 2030) và "xu hướng đối mặt với các con gió nghịch" (ngắn hạn/cho năm 2023-2024) chứa đựng cảnh báo về xu thế khó khăn trội bật kéo dài của nền kinh tế thế giới trong thời gian tới.
Ông Thiên cho rằng, những bối cảnh này hàm ý về những giải pháp vượt qua không dễ dàng cho cộng đồng thế giới, mỗi quốc gia và doanh nghiệp.
Là quốc gia "đi sau" nhưng có độ mở cửa cao trên mọi phương diện, theo TS Trần Đình Thiên Việt Nam không nằm ngoài xu thế toàn cầu và thời đại. Tuy nhiên, theo nguyên Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam, nhìn xuyên suốt quá trình thực tiễn, có hai vấn đề lớn: "Xu hướng suy giảm động lực tăng trưởng kinh tế liên tục và kéo dài. Doanh nghiệp Việt Nam giỏi chống chịu, sống dai nhưng chậm lớn, khó trưởng thành".
Vấn đề suy giảm động lực tăng trưởng, ông Thiên cho rằng trong gần 40 năm đổi mới, dù mức tăng trưởng bình quân không thấp, song cứ sau mỗi giai đoạn 10 năm, tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam lại bị giảm gần 1,0% tốc độ bình quân.
"Xu hướng suy giảm mạnh kéo dài động lực tăng trưởng kinh tế của Việt Nam suốt từ khi bắt đầu đổi mới tới nay. Tuy nhiên, cho đến nay, vẫn chưa có một nghiên cứu nào giải thích xu hướng này một cách có hệ thống và mang tính thuyết phục cao", TS Trần Đình Thiên nhấn mạnh.
Một nghịch lý được TS Trần Đình Thiên chỉ ra là nền kinh tế khát vốn nhưng không hấp thụ được vốn; nhiều doanh nghiệp "đói vốn" nhưng lâm vào tình thế "không thể, không dám và không cần" vay vốn, tùy theo hoàn cảnh mỗi doanh nghiệp. Đây thực sự là một nghịch cảnh phát triển.
Ông Thiên cho rằng, về tổng thể, tình trạng thiên lệch phát triển và khó, không thể phối hợp hoạt động của các thị trường tài chính và các kênh cung ứng vốn công được xác định là nguyên nhân chính của tình trạng bất ổn và khó khăn mà khu vực kinh tế "nội" đang lâm vào. Tình trạng "không thể", "không muốn" và "không dám" vay vốn của doanh nghiệp có căn nguyên từ cách phát triển các thị trường tài chính như vậy.
Ông Thiên kết luận: Tình trạng ách tắc lưu thông các nguồn lực là căn nguyên "bất động hóa" các nguồn lực, làm cho chúng không thể chuyển hóa thành "động lực phát triển", dẫn tới chỗ cơ thể kinh tế bị suy yếu, bị tổn thương và bất ổn.
Ngoài ra, ông Thiên cho rằng: Có thực tế là nền kinh tế "khát vốn" nhưng lại khó hấp thụ vốn. Minh chứng đến từ giải ngân đầu tư công, tăng trưởng tín dụng… Về đầu tư công, hết tháng 8/2023, giải ngân mới đạt 39,6% kế hoạch, trong khi đó, mức tăng trưởng tín dụng chỉ đạt 5,5% trong khi mục tiêu cả năm là tăng 14%.
Mức tăng trưởng tín dụng và giải ngân vốn đầu tư công thấp thực sự là điều gây bất ngờ trong bối cảnh đa số doanh nghiệp đang "đói vốn, khát vốn". Nó càng khó ngờ khi trong mấy tháng đầu năm 2023, Chính phủ đã nỗ lực đưa ra nhiều chính sách và giải pháp mạnh hỗ trợ nền kinh tế và doanh nghiệp thoát khỏi tình thế khó khăn. Bên cạnh đó, hệ thống ngân hàng cũng làm điều "chưa từng thấy": 4 lần hạ lãi suất, áp dụng nhiều giải pháp nới lỏng điều kiện vay vốn, cho dù áp lực nợ xấu, lạm phát, tỷ giá hối đoái và cả áp lực "phải đẩy mạnh cho vay" tiếp tục tăng.
Điều khó hiểu được TS Trần Đình Thiên chỉ ra là kinh tế Việt Nam thường chứa đựng "nghịch lý": Doanh nghiệp Việt Nam giỏi chống chịu, sống dai nhưng chậm lớn, khó trưởng thành.
"Nhận định này không hẳn là nghịch lý, thậm chí, nó còn thuận lý lịch sử, giống như nhận định "ai giỏi chịu khổ thì khó trở thành giàu". Đối với lực lượng doanh nghiệp Việt, tuy gắn với quá trình chuyển đổi kinh tế chưa lâu, song có những đặc điểm phát triển khác thường. Một mặt, đó là những doanh nghiệp có năng lực chống chịu và sinh tồn phi thường", TS Thiên phân tích.
Theo ông Thiên một trong những bằng chứng rõ ràng, thuyết phục của nhận định đó chính là thực tế hiếm có nơi nào trên thế giới mà các doanh nghiệp phải trả giá vốn (lãi suất) cao như ở Việt Nam – thường là gấp 2-3 lần các nền kinh tế thị trường "bình thường" trên thế giới.
Ông này cho rằng, câu hỏi đặt ra là tại sao với năng lực "chống chịu" và "trụ hạng" hiếm có như vậy mà đa số doanh nghiệp Việt mãi cứ là những thực thể nhỏ bé và yếu kém, cứ "chậm lớn", "khó lớn", "ngại lớn", khi "li ti hóa" trở thành xu hướng xuyên suốt quá trình phát triển của doanh nghiệp Việt, mặc dù chúng là một trong những thành tố quan trọng nhất cấu thành "nội lực", quyết định sự phát triển nền kinh tế Việt Nam.
"Nếu đo sự phát triển doanh nghiệp theo logic "chạy tiếp sức", sẽ thấy vấn đề tuổi thọ của doanh nghiệp Việt là đáng lo ngại. Bởi theo thống kê chính thức, hàng năm, số doanh nghiệp "rút khỏi thị trường" xấp xỉ 70-75% số "đăng ký thành lập". Đây là một tỷ lệ không bình thường. Nó hàm ý số doanh nghiệp Việt "sống thọ" không nhiều. Một bộ phận lớn doanh nghiệp "chưa kịp lớn" đã "ra đi", TS Trần Đình Thiên nói.
Về kinh nghiệm và giải pháp TS Trần Đình Thiên cho rằng, cần xác lập các điều kiện của nền kinh tế như hạn chế phân bổ nguồn lực theo cơ chế "xin – cho", "hành chính"; Ưu tiên thúc đẩy phát triển các thị trường, đặc biệt là các thị trường "đầu vào", tạo cơ sở để việc phân phối các nguồn lực diễn ra theo đúng nguyên tắc thị trường (cạnh tranh). Các thị trường đầu vào càng đồng bộ, hiệu quả phát triển càng cao.
Đặc biệt, cần quán triệt "tam thông" trong phát triển: Thông suốt hạ tàng kết nối, hạ tầng cứng, hạ tầng mềm; Thông thoáng cơ chế (cơ chế thị trường, công khai, minh bạch, khuyến khích cạnh tranh…) và Thông minh vận hành (điều hành thông minh, chủ động, sáng tạo… ".
Vui lòng nhập nội dung bình luận.