Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận
Khi nhấn đăng nhập đồng nghĩa với việc bạn đã đồng ý với điều khoản sử dụng của báo Dân Việt
Đăng nhập
Họ và tên
Mật khẩu
Mã xác nhận
Đăng ký
Xin chào, !
Bạn đã đăng nhập với email:
Đăng xuất
Tính đến ngày 20/11, Việt Nam đã vượt mốc tiêm chủng 100 triệu liều Vaccine Covid-19 và cứ đảm bảo tốc độ mũi tiêu, mục tiêu phủ vaccine cho dân số trưởng thành vào cuối năm là thực hiện được.
Như vậy, từ vị trí "đội sổ" trong bảng Chỉ số phục hồi Covid-19 của Nikkei hồi tháng 9, nay Việt Nam đã lên giữa bảng (95/121), xếp trên Thái Lan, Philippines, Nga...
Kết quả này nói lên một điều đã đến lúc Việt Nam chuẩn bị cho năm 2022 với một chiến lược cụ thể và đủ tầm cho sự phục hồi kinh tế.
Trao đổi với Góc nhìn chuyên gia của Dân Việt về cơ hội cho phục hồi kinh tế, ông Nguyễn Minh Cường, Chuyên gia Kinh tế trưởng của ADB, cho rằng: Quan trọng nhất lúc này là các bộ ngành cần có sự phối hợp để ra chính sách một cách nhanh nhất. Trong trường hợp chưa làm được như vậy, Việt Nam cần có cơ chế tạo điều kiện để đưa ra được quyết sách bao trùm được tất cả các do dự của từng bộ ngành.
Trong dự báo đưa ra trước đó, ADB dự báo GDP của Việt Nam sẽ tăng trưởng khoảng 3,8% trong năm nay. Đến nay dự báo đó có thay đổi không thưa ông?
- Nhìn chung, ADB vẫn lạc quan với tiềm năng tăng trưởng của Việt Nam trong trung và dài hạn. Tại thời điểm tháng 9/2021, ADB đưa dự báo tăng trưởng GDP năm 2021 của Việt Nam khoảng 3,8% so với mức 6,7% đưa ra vào tháng 4/2021.
ADB từ trước đến nay vẫn duy trì quan điểm mức độ phủ vaccine cũng như số ca mới tăng lên sẽ có những tác động tới hoạt động sản xuất kinh doanh.
Chẳng hạn như Philippines, năm ngoái tăng trưởng của quốc gia này là âm 6% nhưng nhiều khả năng tăng trưởng GDP của họ có thể lên tới 5% trong năm 2021 này, lý do chính số ca nhiễm giảm từ trên 10.000 ca và xuống dưới 2.000 ca và bây giờ vẫn đang tiếp tục giảm. Chính vì vậy, dự báo về tăng trưởng kinh tế của quốc gia này rất khả quan.
Còn với Việt Nam, với tình trạng lao động hiện chưa đáp ứng được nhu cầu hoạt động sản xuất kinh doanh và số ca dương tính Covid-19 vẫn vượt trên 10.000 ca trong ngày hôm qua (22/11) - đây là hiện tượng tương đối khác so với các quốc gia khác. Hiện, một số tỉnh miền Nam cho dù không muốn những vẫn buộc phải có biện pháp chặt để hạn chế sự lây lan.
Mặc dù chúng ta thực hiện sống chung với dịch nhưng số ca tăng lên, sẽ tạo sức ép lên y tế, người lao động bị hạn chế đi lại và điều này sẽ tác động tới tăng trưởng kinh tế.
Ngoài ra, từ khi nới lỏng giãn cách đến cuối năm (khoảng 2 tháng), kinh tế sẽ khó có sự tăng trưởng đột biến, nhất là khi ca nhiễm vẫn cao, để bù đắp cho sự sụt giảm của tăng trưởng trong quý III vừa qua.
Theo quan điểm của ông, con số tăng trưởng liệu có mang nhiều ý nghĩa không?
- Theo quan điểm của tôi, cho đến thời điểm này con số tăng trưởng không có ý nghĩa nhiều nữa bởi đứng về mặt dự báo thì không có mô hình nào có thể chạy theo kịp những biến động trong cuộc khủng hoảng y tế lần này.
Hơn nữa, nhiều khi bám vào con số tăng trưởng sẽ dẫn tới những sự lệch lạc, tức là để đạt được mục tiêu tăng trưởng nhiều khi lại coi nhẹ các mục tiêu chính là các biện pháp y tế, ngăn chặn dịch bệnh.
Ông từng có ý kiến, so với nhiều quốc gia khác thì mức chi cho hỗ trợ của Việt Nam dựa trên góc độ bảo toàn ngân sách hơn là duy trì động lực cho tăng trưởng, mà động lực ở đây chính là người lao động. Quan điểm của ông ở thời điểm này có thay đổi?
- Nhìn chung, Việt Nam vẫn còn rụt rè trong sử dụng tài khóa mà sử dụng chính sách tiền tệ tương đối nhiều so với các nước. Điều quan trọng là xác định được mục tiêu.
Do cú sốc kinh tế lần này xuất phát từ dịch bệnh Covid-19 mà không phải xuất phát từ khủng hoảng kinh tế - tài chính, nên về phương diện lý luận cũng như thực tiễn thì để xử lý triệt để thì các giải pháp chuyên môn về y tế vẫn mang tính chất quyết định và chủ yếu, còn chính sách kinh tế vĩ mô là các công cụ mang tính hỗ trợ.
Tới đây, khi có chương trình hỗ trợ kích thích kinh tế mới, theo tôi nên lấy chính sách tài khóa làm chủ đạo, có sự kết hợp hài hòa với chính sách tiền tệ. Trong chính sách tài khóa, cần tăng phần chi hơn là việc giãn thuế, giảm thuế - giải pháp này rất ít tác dụng.
Vậy theo quan điểm của ADB, nên chi tiêu hỗ trợ thế nào trong bối cảnh bình thường mới ?
- Theo quan điểm của ADB, trong ngắn hạn, mục tiêu vẫn là kiềm chế đại dịch, giảm thiểu tác động về mặt y tế, và kinh tế. Ưu tiên cho chi y tế, đảm bảo an ninh xã hội cho người dân và lao động.
Về dài hạn, mục tiêu hỗ trợ nền kinh tế đáp ứng các biện pháp tài khóa trong giai đoạn này chuyển dần từ trực tiếp sang hỗ trợ gián tiếp, tức là từ hỗ trợ về tài chính sang hỗ trợ về cơ chế, từ hỗ trợ số nhiều sang số ít các đối tượng chịu ảnh hưởng lâu dài của đại dịch. Hướng tới đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, tăng trưởng xanh bền vững.
Điểm cuối cùng là tập trung vào đầu tư công.
Chính phủ đang giao cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư xây dựng chương trình phục hồi kinh tế với quy mô lớn, tuy nhiên huy động nguồn lực từ đâu là điều nhiều người đang đặt ra câu hỏi. Một số quan điểm cho rằng, dư địa của Việt Nam còn rất dồi dào, nhưng cũng có những quan điểm bày tỏ lo ngại về sự an toàn của các cân đối vĩ mô khi thực hiện chương trình hỗ trợ quy mô lớn. Vậy cá nhân ông, ông đánh giá thế nào về dư địa của Việt Nam?
- Dư địa tài khóa được củng cố trong các năm gần đây, an toàn nợ công vẫn được đảm bảo, trong ngắn hạn Việt Nam có thể chấp nhận mức bội chi cao hơn và nợ công tăng trong giai đoạn 2021-2023 để hỗ trợ nền kinh tế.
Về dài hạn hơn, khi nền kinh tế đã dần phục hồi, vai trò hỗ trợ của chính sách tài khóa cũng giảm dần, cần có các biện pháp mở rộng cơ sở thu, tăng cường quản lý thu và cải thiện hiệu quả chi ngân sách nhà nước để thiết lập lại kỷ luật tài khóa trong vòng 3-5 năm sau, đảm bảo các chỉ tiêu an toàn tài chính quốc gia trong giai đoạn 2021-2025.
Tuy nhiên, Việt Nam đang ở trong tình huống "tiến thoái lưỡng nan", ở chỗ tiền giải ngân đầu tư công giải ngân không hết, thậm chí với ODA cách đây 3 tháng có tới 9 tỉnh trả lại tiền ODA, tức là tiền không tiêu hết.
Nới trần nợ công để vay thêm tiền để làm gì khi tiêu không hết, hoặc muốn vay phải xác định rất rõ cần làm những gì lúc đó mới vay.
Một điều nữa mà tôi rất muốn nhấn mạnh đó là, Việt Nam có thể có dư địa về tài khóa nhưng Việt Nam chưa chắc đã có dư địa về mặt thời gian. Thời gian đối với Việt Nam càng ngày càng thu hẹp. Đó là thông điệp quan trọng nhất của Việt Nam ở thời điểm hiện nay.
Ông có thể nói rõ hơn vì sao Việt Nam lại chưa chắc đã có dư địa về mặt thời gian?
- Dư địa về mặt thời gian chưa chắc đã có bởi vì sao? Đó là vì trong khi hầu hết các nước phản ứng rất nhanh và hiệu quả khi dịch bệnh lên cao trào, thì Việt Nam lại bỏ mất cơ hội đó.
Chẳng hạn như Philippines, quốc gia này gặp rất ít vấn đề về lao động vì họ đã hỗ trợ kịp thời. Thực tế, vào lúc số ca nhiễm đang ở đỉnh điểm, quốc gia này vẫn đón người lao động Philippines từ nước ngoài về. Chính phủ và các doanh nghiệp đã có những chương trình hỗ trợ tài chính cho người lao động để duy trì lực lượng lao động và chương trình đã có hiệu quả ngay lập tức.
Còn tại Việt Nam, cơ hội để hỗ trợ người lao động khi dịch bệnh căng nhất và cần được hỗ trợ nhất đã bị bỏ lỡ do sự thực hiện chậm trễ các gói hỗ trợ.
Thời cơ tiếp theo để hỗ trợ cho người lao động, nền kinh tế đó là thời điểm hiện tại thì lại tiềm ẩn nguy cơ phải đối mặt với rủi ro lạm phát năm 2022.
Nếu như gói hỗ trợ của Chính phủ được thông qua vào cuối năm 2021, thì đầu năm 2022 mới có thể bắt đầu được thực hiện – đây cũng là thời điểm rất có thể sức ép lạm phát sẽ bắt đầu tăng.
Lạm phát có thể tác động đến Việt Nam qua nhiều kênh. Sức ép lạm phát từ phía cầu năm 2021 sẽ ít, và sẽ gia tăng dần cũng với các gói kích cầu trong năm 2022.
Sự phục hồi của các chuỗi cung ứng trong nước phần nào sẽ hạn chế sức ép cung của lạm phát. Tuy nhiên, tổn thương của chuỗi cung ứng toàn cầu có thể khiến chi phí logistic và thương mại vẫn tăng. Phục hồi kinh tế toàn cầu có thể tiếp tục đẩy giá nguyên vật liệu, nhiên liệu.
Các gói hỗ trợ kích cầu khủng của Mỹ và các nền kinh tế phát triển đẩy mạnh tiêu dùng, trong khi nguồn cung toàn cầu vẫn chưa phục hồi hoàn toàn do Covid-19 và hậu quả của chiến tranh thương mại Mỹ-Trung, đã khiến cung không đáp ứng kịp sự gia tăng quá nhanh của cầu, theo đó đẩy lạm phát lên cao.
Các ngân hàng trung ương buộc phải tính đến rút ngắn thời gian thực hiện các biện pháp tiền tệ và tài khóa nới lỏng. Nếu điều này xảy ra, hậu quả sẽ là sự đảo chiều của dòng chảy tài chính, gây tác động mạnh đến tỷ giá và qua đó sẽ tác động đến lạm phát Việt Nam.
Nếu áp lực về lạm phát tăng, trong khi hơn 90% doanh nghiệp gặp khó khăn do đại dịch và 1,8 triệu người thiếu việc vẫn cần được hỗ trợ thì việc triển khai chương trình hỗ trợ nhằm vào doanh nghiệp, nhằm vào 1,8 triệu lao động này nếu đợi sau tháng 12/2021 liệu có còn hiệu quả hay không? Nhưng nếu không thực hiện thì cũng không được.
Như vậy, theo đánh giá của ông thì dư địa thời gian rất hẹp, làm thế nào để Việt Nam khắc phục được mặt hạn chế của dư địa thời gian, thưa ông?
- Đây là thử thách đối với Việt Nam hiện nay, xem Việt Nam phản ứng nhanh như thế nào? Thực ra đối với những khủng hoảng như thế này thì khó nhất là phản ứng nhanh.
Trong thời gian qua, phản ứng về mặt chính sách của Việt Nam có thể đưa ra rất nhanh nhưng thực hiện rất chậm, và thậm chí đến nay đưa ra chính sách và thực hiện chính sách đều đang chậm.
Thực tế, việc đưa ra một gói hỗ trợ đủ lớn và thực sự có hiệu quả đến nền kinh tế không hề dễ dàng, bởi chúng ta phải xem xét trên tất cả các khía cạnh, để tranh gây ra những bất ổn cho nền kinh tế.
Qua các cuộc thảo luận gần đây chúng ta thấy rằng, có rất nhiều luồng quan điểm được đưa ra. Có quan điểm cho rằng, chính sách tiền tệ đã hết dư địa hỗ trợ, cần phải đẩy mạnh chính sách tài khóa.
Ngược lại, cũng có những quan điểm cho rằng chính sách tài khóa đã gần tới hạn, chính sách tiền tệ vẫn còn dư địa để giảm lãi suất cho vay,…
Thực tế, dù quan điểm nào cũng có cái lý của nó nhưng quan trọng nhất lúc này là các bộ ngành phối hợp thế nào để ra chính sách một cách nhanh nhất.
Trong trường hợp chưa làm được như vậy, liệu Việt Nam có cơ chế tạo điều kiện để đưa ra được quyết sách bao trùm được tất cả các do dự của từng Bộ ngành hay không? Như tại các quốc gia khác, quyết sách cuối cùng được đưa ra ở cấp cao hơn.
Tóm lại, một trong những những biện pháp là cần một cơ chế trên Bộ như thế, giống như khi các tỉnh có tính cát cứ, đã chặn đứng giao thông, ngay lập tức chúng ta đã có Quyết định 128 giải quyết vấn đề này.
Việc chính sách của Việt Nam có độ trễ rất lớn đó là vấn đề đã được nhiều chuyên gia nhắc đến, và đến nay vẫn chưa giải quyết được. Nếu như chúng ta không thể đẩy nhanh được việc ra chính sách và thực hiện chính sách thì điều gì sẽ xảy ra, thưa ông?
- Trong trường hợp đó, phải xem xét những biện pháp ngắn hạn có còn thực hiện được nữa hay không và nếu có thì thực hiện mức độ nào để hạn chế sức ép lạm phát?
Ví dụ như nhìn một chiếc thuyền chìm thời gian chỉ có hạn bởi nước triều lên, vậy trong 10 người thì cứu ai? Buộc chúng ta phải có những quyết định, lựa chọn rất đau đớn.
Thời gian hạn hẹp thì không thể nào hỗ trợ hết được, mà phải hỗ trợ như thế nào và hỗ trợ sẽ phải chọn lọc hơn, phải chấp nhận một số thanh lọc và tái cơ cấu nhất định.
Cho dù Thái Lan không có vấn đề về mặt thời gian như Việt Nam, nhưng Thái Lan vẫn nhân cơ hội này thúc đẩy quá trình tái cơ cấu ngành du lịch. Bởi ngành du lịch của quốc gia này có quá nhiều công ty siêu nhỏ, hàng chục nghìn công ty siêu nhỏ hoạt động.
Trong khi những công ty siêu nhỏ có thể tạo ra công ăn việc làm, nhưng công nghiệp du lịch của Thái Lan vẫn dậm chân tại chỗ trong nhiều thập kỷ do khả năng cạnh tranh thấp. Do đó, Thái Lan tận dụng cơ hội này để thanh lọc công nghiệp du lịch, thông qua việc hỗ trợ chọn lọc. Đây cũng là bài học cho Việt Nam.
Hai là, khi cơ hội ngắn hạn đã bị bỏ lỡ thì phải tập trung vào trung hạn và dài hạn.
Nếu như trong năm 2020 và 2021, câu chuyện ngắn hạn là quan trọng thì tạm thời chưa bàn đến trung hạn, dài hạn. Câu chuyện trung hạn và dài hạn ở đây chính là đầu tư công. Bởi để kích thích nền kinh tế trong trung và dài hạn chỉ có đầu tư công, đầu tư công là tập trung xây dựng các dự án cơ sở hạ tầng, thúc đẩy tăng trưởng xanh, và chuyển đổi số,...
Vậy theo ông, các chính sách ngắn hạn như thế nào thì phù hợp với nền kinh tế Việt Nam ở thời điểm hiện tại?
- Về câu chuyện ngắn hạn, tập trung hỗ trợ cái gì thì tôi cho rằng Chính phủ Việt Nam đã xác định rất rõ đó là y tế (hệ thống phòng thủ của Việt Nam là y tế như vaccine, nghiên cứu vaccine, thuốc đặc trị, hệ thống y tế, bệnh viện), và các gói an sinh xã hội và hỗ trợ doanh nghiệp.
Về lĩnh vực, ví dụ du lịch vận tải hay logistic - chịu ảnh hưởng rất nặng nề của dịch bệnh, nếu không có hỗ trợ kịp thời sẽ tác động mạnh tới nền kinh tế. Tất nhiên trong mỗi lĩnh vực lại xác định đối tượng cụ thể, ví dụ vận tải là vận tải hàng không như thế nào, đường bộ như thế nào...
Có rất nhiều cơ chế tài chính để thực hiện các biện pháp ngắn hạn như hỗ trợ lãi suất, chia sẻ rủi ro như bảo lãnh tín dụng cần phải thực hiện ngay chứ bàn mãi không thực hiện sẽ rất khó.
Về đối tượng lao động, Chính phủ cần lưu ý đến các chính sách hỗ trợ cho các đối tượng khu vực không chính thức,..
Ông dự đoán về nào về tăng trưởng GDP của Việt Nam năm 2022?
- Tăng trưởng GDP năm 2022 của Việt Nam tùy thuộc vào việc kiểm soát dịch bệnh, mức độ, phạm vi gói hỗ trợ và việc thúc đẩy giải ngân đầu tư công. Tốc độ tiêm chủng nhanh của Việt Nam hiện nay sẽ hỗ trợ rất nhiều cho tăng trưởng 2022.
Nhìn chung ADB vẫn đang để dự báo kinh tế Việt Nam sẽ tăng trưởng khoảng 6,5% trong năm 2022, dựa trên giải thiết đầu tư công trong 1 năm trung bình 500.000 tỷ, lạm phát được kiểm soát và dịch bệnh được kiểm soát.
Xin chân thành cám ơn ông!
Vui lòng nhập nội dung bình luận.