Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận
Khi nhấn đăng nhập đồng nghĩa với việc bạn đã đồng ý với điều khoản sử dụng của báo Dân Việt
Đăng nhập
Họ và tên
Mật khẩu
Mã xác nhận
Đăng ký
Xin chào, !
Bạn đã đăng nhập với email:
Đăng xuất
Mất vài giây định thần, ông Thường chỉ kịp quơ vội vài thứ đồ đạc, đeo ba lô rồi cuống cuồng chạy theo hướng có tiếng nổ ầm ầm. Đó là khu cầu Bản Sẩy giáp ranh giữa xã Bế Triều và thị trấn Nước Hai.
Trước mắt ông là một cảnh tượng kinh hoàng. Hàng chục chiếc xe tăng của quân Trung Quốc rầm rập tiến vào, bị trúng đạn B41 của bộ đội ta. Chiếc đang bốc cháy, chiếc đứt xích, chiếc lao xuống ruộng, có chiếc bị cháy còn lao cả vào bụi tre... Ông lập tức chạy tới gần những xe tăng vừa bị tiêu diệt giơ máy ảnh bấm lia lịa. Sau này đếm lại thấy chụp được 8 chiếc, trong đó có một chiếc bị bắt giữ.
Rồi những tiếng la hét, đốt phá ầm ĩ. Khắp nơi ngột ngạt mùi thuốc súng, tanh nồng bởi máu me. Tiếng gào khóc, gọi nhau lạc cả giọng lẫn trong những âm thanh rầm rập của xe tăng, tiếng loảng xoảng của súng ống, lưỡi lê. Khắp nơi, người dân gồng gánh, nháo nhác theo nhau chạy giặc.
"Nếu đêm đó tôi nghỉ tại nhà khách Giao Tế như mọi lần thì không có cơ hội có những bức ảnh thế này", ông Trần Mạnh Thường - người nổi tiếng với những bức ảnh "có một không hai" về cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc, nói với phóng viên Dân Việt.
Năm 1979, ông là nhà báo duy nhất có mặt lúc bắt đầu xảy ra trận chiến biên giới ở Cao Bằng, đã tận mắt chứng kiến sự khốc liệt của cuộc chiến và ghi lại những bức ảnh lịch sử, tinh thần chiến đấu ngoan cường của quân dân Cao Bằng.
Sau này, cuốn sách "Nhìn lại cuộc chiến biên giới phía Bắc 1979" ra đời năm 2020 đã được biết đến như một cuốn sách lịch sử bằng ảnh, ghi lại giai đoạn đau thương nhưng đầy tự hào của người dân Việt Nam, là bằng chứng chân thực và thuyết phục nhất về cuộc chiến biên giới phía Bắc diễn ra cách đây 46 năm.
Ông Trần Mạnh Thường - người nổi tiếng với những bức ảnh "có một không hai" về cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc trò chuyện với phóng viên báo điện tử Dân Việt. Ảnh: Khổng Chí
Điều gì đã thôi thúc ông cầm máy ảnh và bước vào vùng chiến sự nguy hiểm như vậy. Có khoảnh khắc cụ thể nào khiến ông quyết định theo đuổi là một phóng viên chiến trường? - Chúng tôi bắt đầu cuộc trò chuyện với ông cũng vào một chiều mùa xuân tháng 2, khi thời tiết Hà Nội đang những ngày giá rét.
Nhấp một ngụm trà, ông Thường kể, vào những năm 1978, khi ấy ông đang là uỷ viên Hội nghệ sĩ nhiếp ảnh Việt Nam, làm việc tại Nhà xuất bản Văn hoá của Bộ Văn hoá thông tin. Tháng 10 năm 1978, Ban Tuyên huấn Trung ương (nay là Ban Tuyên giáo Trung ương) có chủ trương đưa văn nghệ sỹ lên biên giới để tuyên truyền chủ trương, đường lối chính sách của Đảng, vận động nhân dân không nghe theo địch.
Một hội nghệ sĩ được cử đi công tác tại Cao Bằng gồm ông, hai nhạc sĩ là Thái Cơ, Phó Đức Phương và hoạ sĩ Doãn Chung. Đến trước Tết Nguyên đán năm đó, đoàn của ông trở về Hà Nội. Giữa tháng 2 năm 1979, ông rủ mấy người bạn trở lại Cao Bằng nhưng họ nói không lên nữa.
- Ngày 16/2, tôi ra quầy bán vé máy bay ở Bờ Hồ để mua vé lên Cao Bằng (Cao Bằng có sân bay đỗ được máy bay cánh quạt - PV) nhưng nhân viên cho biết chỉ có vé một chiều, không có vé khứ hồi. Tôi linh cảm tình hình này có thể chiến tranh sẽ xảy ra. Là một phóng viên ảnh, tôi quyết định phải lên đường ngay. Khoảng 2h chiều tôi đến được Cao Bằng. Chiều hôm đó, tôi không nghỉ lại nhà khách Giao Tế ở Trung tâm thị xã (nay là thành phố) Cao Bằng như những lần trước mà theo một chiếc xe u oát ngược lên phía Bắc. Đêm đó tôi nghỉ lại Phòng Văn hóa ở thị trấn Nước Hai, Hòa An (cách thị xã 16 km).
Ông đã có được rất nhiều bức ảnh giá trị, ghi lại sự thật của cuộc chiến đấu ở biên giới phía Bắc. Trong bối cảnh cuộc chiến khốc liệt như vậy, làm thế nào ông chọn được góc máy, ánh sáng, và khoảnh khắc để chụp được những bức ảnh chân thực mà gây xúc động mạnh như vậy?
- Như các bạn đã biết, chiến tranh thật tàn khốc và lằn ranh giữa sự sống và cái chết rất mong manh. Với những phóng viên chiến trường thời đó, chúng tôi dùng bằng máy cơ, chụp phim, và mỗi người chỉ có chục cuộn phim nhất định nên người chụp phải biết tính toán. Nhưng trong bối cảnh như vậy, chúng tôi không có thời gian để lựa chọn, mà chỉ bằng kinh nghiệm, cứ lập tức bấm máy. Bởi nếu chỉ một phút run sợ, người cầm máy sẽ không có được những bức ảnh lột tả những khoảnh khắc thực sự khốc liệt của cuộc chiến.
Mỗi câu chuyện kể, ông Trần Mạnh Thường lật giở lại những bức ảnh như bằng chính chân thực về cuộc chiến bảo vệ biên giới phía Bắc.
Ông Trần Mạnh Thường lật giở cuốn sách ảnh "Nhìn lại cuộc chiến biên giới phía Bắc 1979" được in rất công phu bằng chất liệu giấy đẹp, dày, bóng và lần lượt giới thiệu cho chúng tôi hơn một trăm bức ảnh đen trắng mà ông lọc ra từ gần một nghìn tấm ảnh ông đã chụp được trong cuộc chiến bảo vệ biên giới phía Bắc.
Người đàn ông ở tuổi gần 90 vẫn run run xúc động khi xem lại những bức ảnh là bằng chứng sinh động về cuộc chiến. Như một thước phim quay chậm, người xem dường như còn nghe được những tiếng súng nổ, ngửi thấy mùi thuốc súng qua những bức ảnh lột tả chân thực các thị xã, làng mạc bị đốt phá và cướp bóc chỉ còn là một đống đổ nát, tan hoang. Nhiều nhà máy thuỷ điện bị đánh sập, nhà trẻ, bệnh viện bị san phẳng, những cây cầu chỉ còn lại đống sắt vụn...
Rồi ông dừng lại ở một trong những bức ảnh khiến ông bị ám ảnh, đó là hình ảnh chị Nguyễn Thị Hải và 4 người con ở thôn Tổng Chúp, xã Hưng Đạo, thị xã Cao Bằng, bị giặc giết hại, bên cạnh là hình ảnh anh Nông Văn Ất - chồng chị, đau đớn chia sẻ với các nhà báo nước ngoài. Các con của họ, đứa bé nhất mới 3 tuổi, đứa lớn nhất 10 tuổi, chị Hải lúc đó đang mang thai ở tháng thứ 6.
Thi thể của người dân bị địch sát hại dã man tại Tổng Chúp, xã Hưng Đạo, TP.Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng. Ảnh: Trần Mạnh Thường
Làm thế nào ông vượt qua được nỗi sợ hãi để tiếp tục chụp ảnh? - tôi tiếp tục câu chuyện để kéo ông ra khỏi những ký ức đau thương.
- Nói thật ai mà chẳng sợ chết. Nhưng khi đã bước vào trận chiến, bom đạn nổ thì chỉ có sống và chết, lúc ấy thì không còn sợ nữa. Chỉ thấy bên này, bên kia có xe tăng bị cháy, cứ lao vào chụp. Các chiến sĩ ra trận thì có súng, còn chúng tôi - những phóng viên ảnh chỉ có tay máy, chẳng biết sẽ bị bắn lúc nào.
Nhưng lúc đó chỉ có suy nghĩ là làm thế nào để có được bộ ảnh đầy đủ, phải mô tả được toàn diện về cuộc chiến. Còn sống sót được lúc đó, là do may mắn thôi. Về sau này, xem lại những bức ảnh mới thấy thật nguy hiểm, thật đáng sợ mà sao mình có thể vượt qua được, làm sao có thể đi bộ hết ngày này sang ngày khác, ăn củ sắn sống và uống nước suối mà vẫn sống được...
Những bức ảnh của ông đầy ám ảnh, lột tả chân thực sự tàn khốc của cuộc chiến. Có câu chuyện nào thật sự đặc biệt đằng sau những bức ảnh đó không, thưa ông?
- Có một câu chuyện khá thú vị mà tôi vẫn nhớ đến giờ, và cũng là cơ duyên tôi mới gặp lại được những nhân vật ấy. Đó là khi đang trên đường tác nghiệp, tôi thấy một em bé khoảng 3 tuổi ngồi khóc thảm thiết bên người mẹ máu me loang lổ, nằm bất động bên đường.
Một chiếc xe comăngca chạy đến và dừng lại, một cô bộ đội đầu đội mũ lưỡi trai, vai khoác khẩu súng AK và quàng sau lưng là một chiếc balô nhảy xuống bế em bé. Tôi lập tức rút máy ảnh và chụp lại.
Vừa lúc ấy súng nổ, cô bộ đội bế em bé chạy về tuyến sau, chúng tôi mỗi người mỗi hướng nên tôi không biết được cô bộ đội tên gì, em bé là ai, ở đâu? Bức ảnh này sau đó được đăng trên báo Nhân Dân, tôi chú thích rõ "Mẹ của em bé? Không phải. Mẹ của em bị xâm lược bắn bị thương ngày 24/2/1979 và đây là cô bộ đội đã cứu em".
Cô bộ đội bế em bé khi mẹ em bị thương, chụp ngày 24/2/1979 ở đèo Tài Hồ Sìn, Cao Bằng. Ảnh: Trần Mạnh Thường
Bẵng đi một thời gian, 37 năm sau, một người đàn ông gõ cửa, chìa bức ảnh cô bộ đội bế em bé và hỏi tôi có biết cô bộ đội và em bé này không. Đó là anh Mai Thanh Hải, phóng viên báo Thanh Niên. Tôi bảo tôi chỉ biết chắc chắn là cô bộ đội địa phương của Cao Bằng hoặc Quân khu 1. Còn em bé, nếu tính thời gian, lúc bấy giờ khoảng 7h sáng, nếu mà chạy giặc lúc 5h sáng thì chỉ cách đây khoảng chục cây số, tức là ở quanh thị xã Cao Bằng hoặc ở huyện Hoà An...
Một năm sau, anh Hải cho biết, bằng một cơ duyên nào đó, anh đã tìm được "cô bé" trong ảnh là Hoàng Thị Hiền, giờ đã là người phụ nữ 40 tuổi, ở xã Hưng Đạo, TP.Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng. Sau đó, anh Hải cũng đi tìm khắp các quân khu, và tìm ra được "cô bộ đội" là bà Bùi Thị Mùi, ở huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ. "Cô bé" đã gặp được người cứu giúp mình trong chiến tranh, loạn lạc. Họ nhận nhau là mẹ con. Chúng tôi cũng đã có duyên gặp lại nhau.
Lại kể tiếp về câu chuyện, sau khi chụp xong ảnh cô bộ đội bế em bé, tôi đến "đại bản doanh" của Quân khu 1, được gặp Thiếu tướng Đàm Quang Trung - Tư lệnh Quân khu 1. Ông cấp cho tôi một giấy giới thiệu đi bất cứ nơi nào ở biên giới, khi có quân đội ta thì được chụp ảnh. Chính vì vậy tôi có thể đi các nơi, và có thể ghi nhận lại được toàn cảnh cuộc chiến biên giới phía Bắc.
Thiếu tướng Đàm Quang Trung và Bí thư Tỉnh ủy Cao Bằng tại chỉ huy sở tiền phương. Ảnh: Trần Mạnh Thường
Ông hy vọng người xem sẽ cảm nhận được điều gì khi nhìn vào những bức ảnh? Những bức ảnh của ông đã ảnh hưởng như thế nào đến cách nhìn nhận của người trẻ về chiến tranh và biên giới, liệu chúng có thể giúp họ hiểu hơn về lịch sử của đất nước?
- Khi tôi tổ chức triển lãm những bức ảnh về cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc, có cả những bạn trẻ đến xem. Các em đã bày tỏ quan niệm về tình yêu đất nước, niềm tự hào của dân tộc. Cũng có bạn trẻ khi xem lại những bức ảnh và nói rằng không thể tưởng tượng được cuộc chiến lại khốc liệt đến như vậy, biết bao đồng bào, người lớn lẫn trẻ em đã chết, bao chiến sĩ đã không tiếc xương máu, hy sinh vì bảo vệ Tổ quốc.
Những bức ảnh này sẽ nhắc nhở người dân Việt Nam, nhất là thế hệ sau về những bài học lịch sử, đặc biệt là việc nhìn nhận, đánh giá đúng bản chất sự kiện, để chúng ta không ai được phép lãng quên lịch sử.
Sau đó ông có khi nào trở lại Cao Bằng không, ông có suy nghĩ gì về hoà bình và sự phục hồi của con người sau những mất mát?
- Cuộc chiến dù đã qua đi, song dường như nó vẫn mãi là nỗi ám ảnh dai dẳng, bám riết người dân nơi đây suốt cả cuộc đời, bởi họ đã mất đi những người thân thiết. Sau đó, tôi có dịp trở lại Cao Bằng, nơi bị tàn phá rất nặng nề sau cuộc chiến. Nhiều nơi đã từng ngày hồi sinh mạnh mẽ, cuộc sống đã có nhiều đổi thay.
Tôi trở lại Tổng Chúp, những gì còn sót lại là giếng nước hoang lạnh và tấm biển ghi lại sự kiện như một cách để nhắc nhở về nỗi đau mà người dân nơi đây phải gánh chịu. Cuộc sống của người dân đã trở lại ổn định hơn, tôi gặp lại những con người cũ, họ rất cảm động khi nhìn thấy những bức ảnh tôi đã chụp.
Câu chuyện của chúng tôi nhiều lần bị ngưng lại. Không phải vì ông Trần Mạnh Thường không nhớ các sự kiện, mà bởi mỗi khi kể một câu chuyện, ông Thường muốn lật mở các tư liệu mà ông đã dày công cất giữ cho chúng tôi xem. Tất cả tư liệu "tích cóp" của cả một đời làm báo, làm nhiếp ảnh được ông cất giữ riêng trong một gian phòng, được lưu giữ khoa học và bài bản.
Với những người làm báo, tư liệu là những thứ vô cùng giá trị, bởi đó là những minh chứng của lịch sử. Người làm báo cũng có thể coi là một người chép sử, nếu như có những tư nguồn tư liệu tốt.
Ông nghĩ gì về vai trò của phóng viên ảnh chiến trường trong việc ghi lại lịch sử, bởi những bức ảnh của ông có thể trở thành những tài liệu lịch sử quan trọng trong tương lai?
- 5 năm được đào tạo nhiếp ảnh ở Đức, chúng tôi đã được học rất cơ bản, họ đã dạy cho chúng tôi rất nhiều kinh nghiệm để từ đó có thể tác nghiệp trong mọi hoàn cảnh. Thời bấy giờ, máy móc chưa hiện đại, nên cũng dễ xảy ra những tai nạn nghề nghiệp.
Và ngay trong khi chụp trong cuộc chiến bảo vệ biên giới phía Bắc, với điều kiện khí hậu ẩm vào tháng 2, tôi cũng đã gặp "tai nạn nghề nghiệp", may mà nhờ sự hiểu biết, tôi đã "cứu" được những bức ảnh mà tôi không bao giờ có cơ hội chụp lần thứ hai.
Chiến tranh có tính chất lịch sử, và những phóng viên ảnh là công cụ ghi chép, tái hiện hình ảnh, diễn biến, sự khốc liệt của chiến tranh để giúp công chúng có cái nhìn chân thực, và cũng từ đó để khơi gợi về khát vọng hoà bình, độc lập dân tộc của mỗi quốc gia. Nên tôi nghĩ, vai trò của phóng viên chiến trường rất đặc biệt, họ phải có lòng dũng cảm, tinh thần yêu nước, dám chấp nhận hy sinh. Tất nhiên là họ phải là những người có kỹ năng tốt.
Điều gì làm nên sự khác biệt giữa những bức ảnh chiến trường của ông so với các phóng viên chiến trường khác?
- Tôi chụp được tại trận những gì đang diễn ra. Đối với nhà báo, đó là điều quý giá bởi không có sự dàn dựng. Nó diễn ra như nào mình chụp như thế, nóng hổi, thời sự.
Điều may mắn của tôi như tôi nói từ trước là tôi lên vào ngày 16/2. Rất nhiều phóng viên chiến trường lên Cao Bằng vào ngày 17/2 lúc xảy ra sự việc thì không vào được, phải dừng lại ở đường số 3.
Đến lúc vào được thì chỉ chụp được cảnh nhà cháy, cảnh tan hoang chứ không còn cảnh người chết hay xe tăng của địch bị ta bắn cháy nữa.
Theo ông, phóng viên ảnh chiến trường ngày nay có gì khác biệt gì so với thời kỳ của ông? Công nghệ và mạng xã hội đã thay đổi cách chúng ta nhìn nhận về chiến tranh như thế nào?
- Nói về công nghệ thì chắc chắn là hơn rồi, giờ máy móc hiện đại, họ dễ dàng để có được những tấm ảnh như mong muốn. Công việc của phóng viên chiến trường ngày nay nguy hiểm hơn xưa, bởi họ ngày càng phải đối mặt với quá nhiều hiểm hoạ khác nhau. Nhưng nếu nói về tinh thần, trong một cuộc hội thảo về nhiếp ảnh, tôi cũng từng hỏi tại sao bây giờ ảnh của phóng viên mình không có nhiều người đạt giải thưởng quốc tế. Có người nói vì ta không có sự kiện lớn.
Nhưng tôi nói thế này, ngay cả một cơn bão, hay lũ quét, sóng thần mà không có ai dám dũng cảm lao vào sự kiện bởi ai cũng sợ chết. Có anh nào dám lao ra giữa dòng nước xiết để chụp cảnh những người chết đuối giữa sông không? Là bởi vì con người ngày nay có nhiều nhu cầu hơn, nhu cầu của sự sống nó sang trọng lắm, không như chúng tôi ngày xưa, bữa cơm chỉ có khoai, sắn, lợi ích lúc đó phải là tinh thần phục vụ cho đất nước, không màng chuyện gì.
Bây giờ nhiều nhu cầu, không ai muốn xông vào những chỗ khổ. Tôi cho rằng có rất nhiều sự kiện nhưng phần lớn ảnh của chúng ta là những ảnh cứu trợ, những hình ảnh rất đơn giản...
Nổi tiếng với những bức ảnh chân thực, giàu cảm xúc và mang tính thời sự cao bởi trong suốt những năm tháng làm việc, ông Trần Mạnh Thường có điều kiện đi khắp mọi miền đất nước, từ những vùng quê nghèo cho đến những thành phố nhộn nhịp và hơn 40 nước trên thế giới.
Những bức ảnh của ông không chỉ là tư liệu quý giá mà còn là tác phẩm nghệ thuật, thể hiện cái nhìn sâu sắc về con người, văn hoá và đời sống của mỗi quốc gia. Sự nghiệp của ông là minh chứng cho sự kết hợp hoàn hảo giữa nghệ thuật và báo chí, giữa ánh sáng và ngôn từ.
Ở tuối 90, ông vẫn rất khoẻ mạnh, tinh anh, vẫn lái xe rong ruổi từ Bắc vào Nam, hàng tuần, hàng tháng có bài viết đều đặn trên các tờ báo, vẫn sử dụng máy tính một cách thông thạo. Ông chìa ra cho chúng tôi xem bằng lái xe ô tô được cấp đổi từ năm 2024 và có giá trị đến năm 2038 khi chúng tôi tỏ ý "nghi ngờ" vì 90 tuổi mà ông vẫn có thể lái xe ô tô được.
Ông Trần Mạnh Thường chỉ cho phóng viên bức ảnh mà ông bị ám ảnh, đó là gia đình anh Nông Văn Ất, bị địch sát hại tới 6 người. Các con của họ, đứa bé nhất mới 3 tuổi, đứa lớn nhất 10 tuổi, chị Hải (vợ anh) lúc đó đang mang thai ở tháng thứ 6.
Ông vẫn lái xe rong ruổi từ Bắc vào Nam, rồi ra nước ngoài để tìm những khoảnh khắc đắt giá cho ngòi bút hay những đam mê nghệ thuật nhiếp ảnh của mình. Ông có thể chia sẻ về những câu chuyện văn hoá, con người mà ông đã ghi lại qua ống kính?
- Năm 2015, tôi ra mắt cuốn sách "Chủ tịch Hồ Chí Minh với nền ngoại giao cách mạng Việt Nam", nhân kỷ niệm 125 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đây là tác phẩm với nhiều hình ảnh lịch sử về những năm Bác Hồ đặt chân tới nhiều quốc gia trên thế giới. Để có được tư liệu, hình ảnh từng địa danh Bác Hồ đã qua, tôi đã dành thời gian đi hơn 40 nước trên thế giới, đã đến những nơi Bác Hồ ăn ở, sinh hoạt, làm việc, hội họp...
Mỗi nước đều lưu lại một thời gian để tìm ra nơi nào Bác đã có mặt và vào thời gian, rồi ghi lại. Hiện ở các nước đó, các ngôi nhà lịch sử, khách sạn, nhà hàng mà Bác đã đặt chân đến... vẫn lưu giữ tên Người bằng cách gắn biển ở bên ngoài. Ví dụ năm 1912, Nguyễn Tất Thành tới làm việc tại khách sạn Omni Parker, Boston, Mỹ. Hoặc cuối năm 1913, Bác rời Hoa Kỳ đi London làm việc tại khách sạn Carlton; hay trên đường từ Moscow về Thái Lan, Bác dừng chân ở ở Milan, Italia. Tại đây Bác thường lui tới nhà hàng Della Pesa...
Ngoài lĩnh vực nghiên cứu, lý luận phê bình nhiếp ảnh, tôi còn sưu tầm và xuất bản tập sách dày hơn 500 trang "Những kỳ quan và di sản của nhân loại" với 1.500 ảnh giới thiệu về các kỳ quan di sản, kiến trúc trên thế giới. Năm ngoái, tôi cùng bà xã đã lang thang hơn 1 tháng ở 8 nước châu Âu, tìm nguồn tư liệu và ấp ủ cho cuốn sách tiếp theo.
Làm thế nào ông có thể chụp, thu thập được một khối lượng khổng lồ các bức ảnh như vậy?
- Để có được những tư liệu đầy đủ về hình ảnh, về những trích ngang lịch sử qua mỗi di sản đã tồn tại nhiều ngàn năm, tôi phải tìm rất nhiều tư liệu, đọc, nghiên cứu trước khi sang các nước để đỡ mất công tìm kiếm và tốn thời gian. Đó là một quá trình ghi chép, lưu giữ rất cẩn thận và tỉ mỉ.
Ông có tin rằng, làm nhiếp ảnh không chỉ là ghi lại khoảnh khắc mà còn là cách đẻ truyền tải thông điệp và cảm xúc. Làm thế nào ông cân bằng giữa việc ghi lại sự thật và truyền tải qua ống kính?
- Viết và chụp ảnh là hai cách để tôi kể chuyện. Mỗi câu chữ, mỗi bức ảnh tôi đều rất chú trọng việc chú thích, đều mang một thông điệp, một câu chuyện cần được lắng nghe. Tôi luôn tin rằng, nghệ thuật và báo chí phải xuất phát từ trái tim. Mỗi bức ảnh, mỗi bài viết đều phải mang trong mình tình yêu và sự trân trọng dành cho con người và cuộc sống. Chỉ khi đó, những tác phẩm mới có thể chạm đến trái tim người xem và để lại dấu ấn lâu dài.
Tôi về hưu năm 1996 nhưng cơ quan giữ lại và sau đó có làm việc ở một số nơi như Hội nghệ sĩ nhiếp ảnh, Trung tâm lưu giữ và triển lãm ảnh Việt Nam. Đến nay, tôi chưa có một ngày nghỉ hưu nào. Nhưng tôi làm điều đó vì đam mê.
Tôi không nghiện ngập gì cả (cười). Tôi không biết uống cà phê, không biết uống rượu, bia, mặc dù tôi có rất nhiều điều kiện để uống. Tôi cũng chỉ tập thể dục bằng cách đi bộ nhẹ nhàng, ăn uống hết sức kiêng kị những thứ không cần thiết cho tuổi già. Tôi kể điều đó để muốn nói rằng, nếu anh đam mê mà không có sức khoẻ thì không thể làm gì được. Chính vì có sức khoẻ nên vẫn có cái ham muốn của người làm nghề, nên vẫn tiếp tục đam mê.
- Xin cảm ơn ông về cuộc trò chuyện!
Vui lòng nhập nội dung bình luận.