Góc nhìn pháp lý vụ đối tượng giả danh cán bộ Tổng cục II lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Phi Long Chủ nhật, ngày 08/09/2024 14:52 PM (GMT+7)
Dù bản thân không phải là quân nhân nhưng Trần Văn Hiếu đã giả danh cán bộ Tổng cục II để tạo uy tín nhằm mục đích lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Luật sư Hoàng Anh Sơn, Đoàn luật sư TP. Hồ Chí Minh đã phân tích dưới góc độ pháp lý về vụ này.
Bình luận 0

Giả danh cán bộ chiếm đoạt tài sản của người dân

Mới đây, cơ quan Tổng cục II, Bộ Quốc phòng phối hợp với Công an thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn bắt quả tang đối tượng Trần Văn Hiếu đang nhận tiền của một người có nhu cầu xin cho con vào quân nhân chuyên nghiệp. 

Theo điều tra ban đầu, qua công tác nghiệp vụ lực lượng chức năng Tổng cục II, Bộ Quốc phòng phát hiện trên địa bàn thành phố Lạng Sơn xuất hiện đối tượng Trần Văn Hiếu, thường lấy tên Trần Văn Hoàng, tự xưng là cán bộ tình báo Quân đội (Tổng cục II) có khả năng "chạy" cho chiến sĩ đang thực hiện nghĩa vụ quân sự chuyển sang quân nhân chuyên nghiệp.

Qua kiểm tra, cơ quan chức năng xác định đây là đối tượng giả danh cán bộ Tổng cục II, có biểu hiện lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Ngay lập tức, cơ quan chức năng Tổng cục II phối hợp với Công an thành phố Lạng Sơn tổ chức theo dõi và bắt quả tang Trần Văn Hiếu đang nhận tiền của một người dân địa phương vào chiều 5/9.

Qua đấu tranh, Hiếu thừa nhận bản thân không phải là quân nhân nhưng giả danh cán bộ Tổng cục II để tạo uy tín nhằm mục đích lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Công an thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn đang tiếp tục xác minh, điều tra, xử lý Trần Văn Hiếu theo quy định của pháp luật.

Góc nhìn pháp lý vụ đối tượng giả danh cán bộ Tổng cục II để lừa đảo - Ảnh 1.

Đối tượng giả danh cán bộ Tổng cục II để lừa đảo. Ảnh: CA.

Quy định về tội danh lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Luật sư Hoàng Anh Sơn, Đoàn luật sư TP.Hồ Chí Minh cho hay, hành vi "lừa đảo chiếm đoạt tài sản" được quy định tại Điều 174, Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017.

Cụ thể, người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm: 

Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm; Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm; Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;

Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ; tài sản là kỷ vật, di vật, đồ thờ cúng có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại.

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm: Có tổ chức; Có tính chất chuyên nghiệp; Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;

Tái phạm nguy hiểm; Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức; Dùng thủ đoạn xảo quyệt; Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm: Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng; Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân: Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên; Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.

Như vậy, theo luật sư Sơn, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có thể bị xử phạt tù thấp nhất là 6 tháng, cao nhất là 20 năm hoặc tù chung thân. Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

Mời các bạn đồng hành cùng báo Dân Việt trên mạng xã hội Facebook để nhanh chóng cập nhật những tin tức mới và chính xác nhất.
Ý kiến của bạn
Tin cùng chuyên mục
Xem theo ngày Xem