Cuộc đời của người 3 lần ám sát Ngô Đình Diệm (Kỳ cuối): Thần chết từ chối

Thứ hai, ngày 17/02/2020 16:31 PM (GMT+7)
Trở lại thời điểm 1957, sau khi ông vừa bị địch bắt giải giao từ Ban Mê Thuột vào Sài Gòn. Sau 33 ngày chịu cực hình tra tấn ở địa ngục P.42 - Sở Thú, địch đã hoàn tất hồ sơ bản cung của ông và tổ chức tòa án quân sự xét xử bí mật nhưng không tuyên án. Chúng đưa ông về giam tại Tổng nha Cảnh sát. Để giam ông, chúng đã cho xây sửa một phòng giam đặc biệt mang số 10.
Bình luận 0

Thay vì chỉ đạo cho tòa án tuyên án tử hình đối với những người tù chính trị chống chế độ độc tài, ít ai biết rằng Ngô Đình Nhu nham hiểm, tàn độc đến độ một mặt ra lệnh công khai cho tòa án hạ án tử hình cho các chính trị gia "Caraven" và các quân nhân tham gia đảo chính năm 1960 để tạo tiếng đạo đức, một mặt ông ta  lạnh lùng bí mật ra lệnh cho một viên phi công thả bom tử hình đồng loạt gồm 341 người tù chính trị, trong đó có cả nhóm đảo chính năm 1960 và nghị sĩ "Caraven".

img

Ông Hà Minh Trí trong lần bị cảnh sát Việt Nam Cộng hòa bắt giữ.

Về phần ông Mười Thương, biết chắc  mình sẽ nhận án tử hình bằng một hình thức nào đó nhưng ông vẫn lạc quan, yêu đời, thậm chí còn tìm được một tình yêu thủy chung trong những ngày chờ chết.

Không tính thời điểm phát súng ám sát vừa nổ, địch muốn giữ người ám sát sống để lấy lời khai, ông có tổng cộng 3 lần thoát chết.

Sau khi kết tra, tòa án quân sự của Diệm đã bí mật xét xử ông nhưng không kêu án mà đưa ông sang nhà tù Chí Hòa. Sau này, một số người sống lưu vong ở nước ngoài cho rằng, Ngô Đình Diệm tuy bất tài nhưng sống rất có đức. Họ dẫn chứng rằng, ông Diệm đã không trả thù kẻ ám sát mình bằng cách ra lệnh xử án tử hình sát thủ Hà Minh Trí (Mười Thương). Họ đã sai lầm.

Tuy đã kết án nhân vật "Hà Minh Trí ám sát bất thành Ngô Đình Diệm" nhưng tòa án quân sự của Diệm không hề tuyên án, kể cả trong hồ sơ. Khi bị đưa sang trại giam Chí Hòa, ông Mười Thương cũng không biết số phận mình sẽ ra sao. Cho đến khi nhận tin bị đày ra Côn Đảo ông vẫn không biết số tù của mình là số mấy. Những người tù có kinh nghiệm cũng không hiểu nổi lý do kỳ lạ này.

Chuyến tàu chuyển tù ra Côn Đảo vào tháng 10/1963, đã chở tổng cộng 411 tù chính trị và 1 tù hình sự tử hình. Trong đó có 40 tù cộng sản bị án tử hình, 300 tù cộng sản thành án lẫn không thành án và 10 nhân vật tham gia đảo chính Diệm năm 1960.

Khi chiếc tàu chở tù ấy rời bến được một buổi, đang lênh đênh giữa trùng khơi thì một chiếc máy bay xuất hiện, bay 3 vòng tròn trên bầu trời rồi vút thẳng về hướng Campuchia. Nhiều người tù nói đùa, Diệm cho máy bay chào từ biệt mọi người. Không ai hiểu lý do thật vì sao chiếc máy bay này xuất hiện.

Mãi đến sau khi cuộc đảo chính tháng 11/1963 nổ ra, chính quyền Diệm theo ông ta xuống địa ngục, người phi công lái chiếc máy bay ấy là đại úy Huỳnh Minh Đường từ Campuchia trở về nước cho biết: chính Ngô Đình Nhu đã bí mật ra lệnh cho ông ta thả bom đánh chìm chiếc tàu chở tù nhân giữa biển khơi. Đại úy Đường đã vì lòng nhân đạo và cũng vì tự phán đoán rằng, sau khi thực hiện xong nhiệm vụ ác đức ấy, chưa chắc Ngô Đình Nhu để ông sống. Thế là ông bay chào những người tù rồi sang Campuchia tị nạn.

Hóa ra, do đã có toan tính trước, Ngô Đình Nhu không cần xếp số tù cho Mười Thương. Chiếc tàu ấy tồn tại không mong muốn và cập bến Côn Đảo nên tất cả các nạn nhân khác đều có tên, có số vào trại, ông là người cuối cùng và duy nhất không có tên trong danh sách. Viên cai tù lúng túng chạy đi đánh điện vào đất liền để hỏi. Khi trở lại, hắn gán đại cho ông một cái số tù. Đó là lần thoát chết thứ nhất ly kỳ của ông.

Sau khi Ngô Đình Diệm chết, mặc dù được chuyển vào đất liền nhưng địch vẫn chưa chịu tha tù cho ông mà tiếp tục giam ở trại Cộng Hòa. Sau nhiều biến động do những kẻ xôi thịt khuynh đảo chính trường miền Nam, đầu năm 1965 Phan Khắc Sửu tạm làm quốc trưởng. Lúc ấy, đồng chí Trần Quốc Hương được địch chuyển từ nhà tù miền Trung vào trại giam Cộng Hòa. Gặp nhau trong tù, đồng chí Mười Hương đã chỉ đạo ông làm đơn gửi cho Phan Khắc Sửu. Nhận tình "đồng đạo Cao Đài", Phan Khắc Sửu đã ra lệnh thả ông. Vừa ra khỏi tù, theo hướng dẫn của đồng chí Mười Hương, ông vào ngay căn cứ Củ Chi tiếp tục hoạt động cách mạng.

Tháng 2/1967, ông được điều về làm Trưởng Tiểu ban Điệp báo Ban An ninh Tây Ninh. Ông dự định vào thành để móc nối, xây dựng một số tuyến điệp báo. Trước khi vào thành, ông ghé vào Ban An ninh T4 để làm giấy tờ giả hộ thân. Do đồng chí Nguyễn Tài đang họp nên ông phải trú lại qua đêm tại một căn hầm dành cho khách lãnh đạo. Đêm đó, máy bay địch thả 4 quả bom vào căn cứ T4. 3 quả bay lạc ra ngoài khu vực rừng vắng, 1 quả rơi đúng vào căn hầm ông trú. Quả bom rơi vào chân trái của ông nhưng... không nổ. Ông thoát chết nhưng chân trái không còn.

Lần hụt chết sau cùng đã khiến người bạn đời chung thủy của ông phải sống đời sống thực vật.

Chuyện tình cảm động của người tử tù không số

Trở lại thời điểm 1957, sau khi ông vừa bị địch bắt giải giao từ Ban Mê Thuột vào Sài Gòn. Sau 33 ngày chịu cực hình tra tấn ở địa ngục P.42 - Sở Thú, địch đã hoàn tất hồ sơ bản cung của ông và tổ chức tòa án quân sự xét xử bí mật nhưng không tuyên án. Chúng đưa ông về giam tại Tổng nha Cảnh sát. Để giam ông, chúng đã cho xây sửa một phòng giam đặc biệt mang số 10. Từ đó ông có cái tên là Mười Trí (lúc đó ông mang tên Hà Minh Trí). Phòng giam của ông có 2 lớp cửa. Lớp cửa ngoài là để giam luôn 3 tên gác ngục canh gác ông cẩn mật.

Trong dãy phòng giam đặc biệt 10 phòng đó, từ phòng số 1 đến số 7 là các đồng chí cách mạng. Phòng số 8 là các nữ sinh bị bắt trong phong trào học sinh, sinh viên tranh đấu. Phòng số 9 là Nguyễn Chữ - nguyên Giám đốc Công an Trung phần có nhiều nợ máu với nhân dân - bị giam chung với vài đồng đảng trong vụ đảo chính hụt năm 1960.

Dù vẫn còn thương tích đầy mình do tra tấn và sinh mạng có thể bị "cắt" bất cứ lúc nào, hàng đêm, Mười Thương vẫn ngạo nghễ cất cao tiếng hát những bài ca cách mạng. Tiếng hát người cảm tử vang vọng giữa đêm đen đã lay động rất nhiều trái tim bạn tù. Sau này, khi đã là Phó tổng thống đệ nhị Việt Nam Cộng hòa, Trần Văn Hương đã xuất bản một tập thơ có tựa  là "Lao trung lãnh vận - Thơ lạnh trong tù". Trong tập thơ đó, Trần Văn Hương có dành một bài cho người cảm tử Hà Minh Trí:

            Từng chập luồn sang, giọng thiết tha.

            Đưa niềm u uất khách

            phòng xa.

            Nỉ non tim nghẹn lời

            yêu nước,

            Tê tái sầu vương hận

            mất nhà.

            Oán dậy ào ào:

            cây núi đổ,

            Máu tuôn cuồn cuộn

            suối ngàn xa.

            Lặng nghe não nuột

            người thông cảm,

            Đồng bệnh cùng thương,

            lựa trẻ già.

Cũng trong tập thơ đó, một bài thơ khác của người tù Nguyễn Trung Hậu viết về Hà Minh Trí:

            Phòng giam trăn trở

            lụn canh gà,

            Bên cạnh người đâu

            cất tiếng ca.

            Hơi oán thêm bào

            gan ruột khách,

            Giọng than như khóc

            nước non nhà.

            Mờ mờ sương lạnh

            sao khuya rụng,

            Cuồn cuộn mây sầu

            gió thảm qua.

            Đêm vắng khiến ai

            đồng cảnh ngộ,

            Động niềm tâm sự

            khó phôi pha.

Cả hai nhà thơ "ngang xương" đó đều tự nhận là đồng chí với người tù Hà Minh Trí. Không hiểu, nếu biết ông là một đảng viên Cộng sản kiên trung, hai nhà thơ đó có còn đủ hứng để cảm tác không?

Cách phòng giam ông một căn, ở phòng số 8, một trái tim  nữ sinh 16 tuổi cũng bắt đầu thổn thức vì ông. Đó là nữ sinh cách mạng Nguyễn Kim Hưng. Kim Hưng hoạt động trong phong trào Thành đoàn biểu tình chống đối trực diện Diệm bị bắt cùng với rất nhiều sinh viên học sinh khác. Mặc dù mọi người đều khẳng định ông là "quân Cao Đài" nhưng với trái tim nhạy cảm, cô nữ sinh Kim Hưng đã nhận ra ông là người của Cộng sản qua những bài hát cách mạng. Cô đã thầm yêu ông đơn phương từ những ngày đó. Khi có dịp, cô đều tìm cách lên tiếng hỏi chuyện vọng qua ông.

Khi được gia đình thăm nuôi, cô san sẻ quà gởi qua cho ông. Trong những lần gửi quà ấy, cô kèm luôn bài thơ của cô viết cho ông. Ông không nhớ nội dung do thời gian mài mòn trí nhớ nhưng cái tựa thì ông nhớ rõ. Đó là bài "tình H2O" (tình nước). Chính vì những gói quà ấy mà cô bị gác ngục bắt trói treo đứng vào song sắt suốt 3 ngày liền.

Như số phận, chính Kim Hưng cũng không ngờ ông cũng đang yêu đơn phương cô mặc dù cả hai chưa từng trông thấy mặt nhau. Ngày cô bị địch chuyển xuống trại C, ông đã kịp gửi cho cô bài thơ "Thương nhớ ơi!":

            Thương nhớ,

            thương nhớ ơi!

            Biền biệt tháng ngày trôi

            Tình mênh mông diệu vợi

            Yêu vút xa chân trời

            Thương nhớ,

            thương nhớ ơi!

            ...

Hai người yêu nhau chưa từng thấy mặt, cuộc chia ly không có vòng tay ôm, nụ hôn từ biệt.

Năm 1964, cô Kim Hưng được địch thả. Vừa ra khỏi tù trở về nhà, cô vào khu điều lắng Củ Chi.

Cuối năm 1967, được thả ra, ông cũng bắt liên lạc vào ngay căn cứ Củ Chi. Trong những ngày chờ nhận nhiệm vụ, ông sang khu điều lắng chơi. Khi đang ngồi uống nước mía ở một quán ven đường, ông gặp 3 cô gái bịt mặt đi tới. Trong đó ông nhận ra giọng nói quen thuộc của người mình yêu. Cả hai nhận ra nhau và đó là lần đầu tiên cả hai được ôm trọn vòng tay nhau.

img

Ông Hà Minh Trí chăm sóc vợ.

Một năm sau, đôi uyên ương làm lễ tuyên bố trong căn cứ Bến Súc. Lúc đó bà Kim Hưng là nữ phóng viên báo Quân khu Sài Gòn - Gia Định, còn ông là Trưởng Tiểu ban Điệp báo Tây Ninh. Đại diện họ nhà trai là đồng chí Tô Lâm, tức Tô Quyền  (đồng chí Tô Quyền lấy tên con trai làm bí danh). Đại diện họ nhà gái là đồng chí Đặng Quang Long - Tư lệnh Quân khu Sài Gòn - Gia Định. Ông kể vui: "Lúc đang làm lễ, bọn pháo binh địch bắn vãi đạn vào căn cứ Bến Súc, xem như đốt pháo hôn lễ, rất vui".

Cuộc tình giữa hai người tù năm xưa rất có hậu. Bà sinh cho ông 5 người con. Cả năm người đều thành đạt.

Sau hòa bình, ông và bà đều công tác tại Sở Công an Tây Ninh. Bà nghỉ hưu với cấp hàm Đại tá. Khi ông đang mang hàm Thượng tá thì được chuyển sang dân sự làm Phó ban Nội chính Tỉnh ủy, rồi làm Trưởng ban Tôn giáo trước khi nghỉ hưu năm 64 tuổi.

Đến lúc đó, ông bà mới thực sự có thời gian chăm sóc cho nhau.

Ông nhận danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân năm 2005.

Đầu năm 2009, cặp tình già chở nhau đi thăm bạn chiến đấu cũ, một tai nạn giao thông đã khiến bà dập não dẫn đến tình trạng sống thực vật đến nay. Ông chỉ bị gãy... cái chân gỗ và gãy tay. Một lần nữa ông thoát chết.

Suốt 3 năm nay, ai đến thăm cũng bùi ngùi xúc động khi thấy ông âu yếm xoa bóp, chăm sóc cho bà: "Vợ chồng mình tù đày, chiến tranh bom đạn có nhau, giờ tôi mới có dịp xoa bóp cho bà". Có khi, ông ngồi cạnh bà hát nghêu ngao những bài ca cách mạng, những bài ca mà thuở lao tù đã gắn kết hai trái tim lại với nhau. Những lúc ấy, những giọt lệ của bà từ con mắt bên này lăn sang con mắt bên kia rồi thấm vào gối. Có lẽ đó là những giọt nước mắt hạnh phúc nhất trong đời chinh chiến của hai ông bà. Những khi đó, ông cũng rưng rưng lòng. Trái tim người anh hùng cũng có góc khuất để chứa đựng tình yêu mềm yếu.

Hiện nay, nhờ sự chăm sóc yêu thương của ông mà trạng thái não của bà đã có tín hiệu hoạt động trở lại. Tuy chưa nói được nhưng bà đã biết cười thành tiếng khi vui.

Nghe tin bà bị nạn, rất nhiều bạn bè xa gần đến thăm. Cuối năm vừa qua, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết cũng đã đến tận nhà thăm và tặng quà cho ông bà.

Cuộc đời đầy thăng trầm của người anh hùng "Kinh Kha nước Việt" hình như đang được lắng đọng lại vào những ngày này

Nông Huyền Sơn (An Ninh Thế Giới)
Mời các bạn đồng hành cùng báo Dân Việt trên mạng xã hội Facebook để nhanh chóng cập nhật những tin tức mới và chính xác nhất.
Tin cùng chuyên mục
Xem theo ngày Xem