Dù giàu hay nghèo, dù sung túc hay khốn khó thì các cặp chuẩn bị thành vợ chồng cũng quyết phải chụp được mấy kiểu ảnh cưới để đời sau này ngắm lại. Ít ai nghĩ rằng trên đời này lại có cặp đôi đợi gần 89 năm ngày kết hôn mới được mặc áo cưới, chụp ảnh cưới. Thế nhưng đó là sự thật. Cặp đôi đó là ông Ngô Tông Hán và bà Ngô Thị ở tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc.
Trước là chị em, sau là vợ chồngTrên đời, những người sống trên 100 tuổi thuộc loại hiếm và những cặp vợ chồng cùng được hưởng tuổi trời hơn một thế kỷ thì lại càng hiếm. Nhưng hiếm hơn cả là những cặp vợ chồng sống chung với nhau gần 90 năm mà vẫn hạnh phúc như hai ông bà họ Ngô. Chỉ có điều, họ không bao giờ nghĩ tình yêu của mình là đặc biệt mà đơn giản nghĩ rằng: “Cha mẹ se duyên cho nhau thì cùng nhau chia ngọt sẻ bùi đến hết cuộc đời”, như lời bà Ngô tâm sự.
Ông Ngô năm nay 102 tuổi. Khi ông 6 tuổi, bối cảnh Trung Quốc rất hỗn loạn khi vừa nội chiến lại có thù trong, giặc ngoài. Ông Ngô theo gia đình từ phương Bắc chạy xuống phương Nam lánh nạn và họ dừng chân ở thành phố Nam Kinh. Tại đây, ông Ngô lạc gia đình vì có quá nhiều nạn dân từ phương bắc chạy xuống phương nam. Một cậu bé 6 tuổi bơ vơ giữa thời loạn lạc là điều cực kỳ nguy hiểm và cậu bé tưởng chừng sẽ chết ở nơi đất khách quê người.
Ông Ngô kể lại: “Ngày đầu lạc gia đình, tôi vừa tìm họ, vừa khóc nhưng chẳng ai giúp đỡ cả. Không thể trách họ vì thời loạn lạc ai cũng lo thân mình chưa xong thì sao giúp được những đứa trẻ lạc gia đình”. Đến hôm thứ hai thì cậu bé không còn sức để khóc vì đói. Cậu bé xin ăn để cầm hơi sống qua ngày nhưng cũng không bao giờ có được một bữa no vì chẳng ai dư giả cho nhiều. Hơn nữa, xin được 10 miếng thì cũng bị lũ trẻ lớn hơn cướp đi 7 miếng.
Tình cảnh tệ hơn khi cậu bé ngã bệnh và do không được thuốc thang nên quỵ xuống rất nhanh. Khi nằm vất vưởng ở xó chợ và bị ruồi muỗi bâu đầy tưởng thần chết sắp tìm đến nơi thì cậu bé gặp được ân nhân. Một cặp vợ chồng làm nghề hát rong dẫn đứa con gái chạy đến Nam Xương thì gặp tình cảnh cậu bé đáng thương ở xó chợ. Họ thương tình đưa về nơi ở là túp lều tồi tàn ven đê rồi hái thuốc cứu chữa. Gia đình này không có con trai nên nhận nuôi cậu bé và đặt tên là Ngô Tông Hán theo họ của mình. Người con gái của gia đình này hơn cậu bé 2 tuổi chính là bà Ngô Thị, vợ của ông Ngô. Nói một cách đơn giản, chính ông Ngô đã được cha mẹ bà Ngô cứu sống và đặt họ, đặt tên rồi nhận là con nuôi.
Nhờ có sự cứu giúp của cha mẹ nuôi mà ông Ngô đã không thành cái xác ngoài xó chợ. Chỉ có điều gia đình nhà hát rong cũng chẳng khá giả gì. Hằng ngày, họ cũng phải dẫn con gái ra ngoài chợ chồng đàn, vợ hát, con gái giơ nón xin tiền. Nhưng hoàn cảnh loạn lạc như vậy mấy ai rủ lòng thương cho tiền người khác nên thu nhập chẳng được là bao, cháo nấu thay cơm là chính.
Những hôm không được cho tiền đủ thì họ phải ra bờ sông mò ốc, vớt củi khô đổi lấy cơm nguội sống qua ngày. Sau khi ông Ngô khỏe hẳn thì được cha mẹ nuôi dẫn đi học nghề, tức là ra chợ học hát, học đàn để sau này nối nghiệp… đổi lấy chén cơm của thiên hạ. Ông Ngô nói rằng khoảng thời gian đó tuy rất khổ cực nhưng ông rất vui vì được sống trong sự bảo bọc của cha mẹ nuôi và chị nuôi.
Thế nhưng, ngày vui chẳng tày gang. Năm 1919, phong trào Ngũ Tứ nổ ra khắp nơi. Trong một lần biểu diễn ở chợ thì gần đó xảy ra bạo động và đạn lạc đã trúng cha nuôi của ông Ngô chết ngay lập tức. Bà mẹ và hai đứa con phải chôn cất vội người nhạc công tội nghiệp ở ven đê. Tình hình tại Nam Kinh lúc ấy quá căng thẳng nên bà mẹ phải dẫn hai con chạy tiếp xuống Nam Xương và hành nghề hát rong tiếp. Lúc này, tay nghề của ông Ngô đã hơi cứng nên có thể đàn thay cha nhưng thu nhập của gia đình từ việc xin lòng thương của thiên hạ cũng không cải thiện là bao.
Một thời gian sau, bà mẹ phần vì thương chồng, phần vì làm việc vất vả nên cũng đổ bệnh nằm một chỗ không thể hát nổi. Lúc này, hai chị em ông Ngô thật ra chỉ là cậu bé, cô bé đã phải ra chợ hát rong để kiếm tiền thuốc thang cho mẹ. Tuy nhiên, trong điều kiện không đầy đủ, bà mẹ ngày càng tiều tụy. Bà mẹ biết không còn sống được bao lâu nữa nên trong đêm cuối đã gọi hai đứa con vào. Bà nói với ông Ngô, “cha mẹ coi con như con trong nhà. Mẹ sắp đi gặp cha con nên chẳng có gì buồn. Chỉ có một điều không yên tâm là con gái. Con phải chăm sóc chị con suốt cả đời và nếu hai đứa không cưới nhau thì ta chết không nhắm mắt”.
Thấy tình cảnh bà mẹ như vậy thì hai người chỉ biết gật đầu. Hơn nữa, họ biết không có huyết thống gì với nhau thì việc này cũng chẳng có gì phải sợ dị nghị. Chỉ có một điều là ông Ngô lúc ấy mới 13 tuổi và ăn uống ít nên quắt queo như đứa trẻ 10 tuổi còn bà Ngô cũng chẳng khá hơn. Dù vậy, trước mặt người mẹ sắp khuất núi, hai người vẫn quyết định làm vợ chồng bằng “tam bái” (lại trời đất, lạy mẹ và lạy nhau theo truyền thống của người Trung Quốc). Khi đó, đang thời loạn lạc thì chẳng cần phải xin phép chính quyền, làm giấy tờ này nọ mà chỉ cần lạy tạ trời đất, cha mẹ làm chứng là đủ.
Còn chuyện mặc áo cô dâu, chụp ảnh cưới thì sao? Nói thật thì ngày đó, hai ông bà Ngô áo rách còn không có mà mặc thì nói gì đến áo cô dâu chú rể. Còn máy ảnh thì có lẽ họ không biết là cái gì vì ngày đó, máy ảnh ở Trung Quốc cực hiếm và chỉ tầng lớp quý tộc mới dám bước chân vào tiệm ảnh.
Hạnh phúc kỳ lạ của gần 90 năm vợ chồngNhư vậy, chỉ sau một đêm, ông bà Ngô từ chị em trở thành vợ chồng. Một thời gian ngắn sau, bà mẹ qua đời, bỏ hai đứa trẻ ở lại cuộc đời đầy loạn lạc. Hai người vẫn hằng ngày ra chợ hát kiếm tiền, tối về đào củ, mò ốc sống qua ngày. Nhớ về cuộc sống vợ chồng hồi đầu, ông Ngô kể: “Hồi đó, chúng tôi vẫn chỉ là những đứa trẻ vì nghe lời mẹ mà thành vợ chồng chứ có biết chuyện gì khác đâu. Hơn nữa, cha mẹ mất sớm nên cũng chẳng ai bảo chúng tôi phải làm vợ chồng như thế nào”.
Ông Ngô kể thời gian đầu, ông vẫn coi bà Ngô như chị và thỉnh thoảng vẫn buột miệng gọi vợ là chị luôn. Trong 3 năm đầu chung sống, họ vẫn rất trẻ con. Ông Ngô kể: “Tôi vẫn nằm dưới đất còn bà nó nằm trên cái ván gỗ. Những hôm lạnh quá thì tôi ôm bà nó ngủ cho ấm như kiểu em nhỏ ôm chị thôi, chẳng nghĩ ngợi gì”. Phải mãi đến khi ông Ngô 16 tuổi thì họ mới sống theo kiểu vợ chồng đúng nghĩa. Riêng lần tân hôn như thế nào thì ông Ngô không kể vì nói đến giờ vẫn còn thấy xấu hổ.
Sau khi trở thành vợ chồng, cuộc sống của họ là những ngày bôn ba khắp nơi vì chạy loạn. Hai người từng chạy lên Thượng Hải, Quảng Đông, thậm chí lên cả vùng Nội Mông để tránh súng đạn và mưu cầu cơm ăn qua ngày. Mãi đến sau khi nội chiến chấm dứt vào năm 1949, hai người mới quay về Nam Xương vì đó là nơi chôn bà mẹ còn mộ người cha không thể tìm được vì ngày người cha qua đời, cả hai còn quá nhỏ không thể nhớ vị trí. Hơn nữa, binh lửa liên miên thì gạch ngói còn vỡ huống chi là tấm bia mộ bằng gỗ ván sơ sài. Tại Nam Xương, cuộc sống của họ cũng trải qua những giai đoạn khó khăn do mất mùa, sâu bệnh. Tuy nhiên, hai người vẫn lạc quan sống và có con cháu đề huề.
Đến lúc này, khi đã chung sống với nhau gần 90 năm, nếm trải cuộc đời sau gần một thế kỷ, ông bà Ngô không thấy hối tiếc điều gì. Họ khẳng định trong gần 100 năm bên nhau, tính từ lúc ông Ngô làm con nuôi cha mẹ bà Ngô và gần 90 năm làm vợ chồng, họ đã vượt qua những sóng gió nghiệt ngã nhất và tất cả đều không quật ngã tình cảm của họ.
Gần đây, con cháu hai người muốn 2 cụ của họ làm lại một đám cưới để cho thế giới biết về tình yêu của họ. Ông Ngô thì rất hồ hởi nhưng bà Ngô lại không đồng ý vì cho rằng chỉ cần một đám cưới trước mặt bà mẹ hồi năm 1924 là đủ rồi. Bà cũng cho rằng giờ mà cưới lại thì con cháu cười chết. Cuối cùng, ông Ngô thuyết phục bà mặc áo cưới, chụp ảnh cưới với câu khuyên rằng: “Để cha mẹ bên kia thế giới thấy chúng ta được mặc áo cưới như họ ao ước”. Quả là trên đời khó có buổi chụp ảnh cưới kỳ lạ với những con người kỳ lạ trong một mối tình kỳ lạ như của ông bà Ngô.
Tú Anh (Dòng Đời) (Tú Anh (Dòng Đời))
Vui lòng nhập nội dung bình luận.