Tại tọa đàm, các nhà quản lý, các chuyên gia đã cùng thảo luận về vai trò và cách thức gắn kết nội dung SHTT vào các chính sách phát triển KT-XH trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, xác định vai trò quan trọng của các Bộ, ngành trong việc lồng ghép và triển khai các vấn đề SHTT trong chính sách phát triển của ngành, lĩnh vực. Đồng thời, tiếp thu các khuyến nghị của chuyên gia đối với dự thảo Chiến lược SHTT của Việt Nam.
Chia sẻ tại tọa đàm, Bộ trưởng Bộ KH&CN Chu Ngọc Anh khẳng định, hệ thống SHTT với cơ chế bảo hộ độc quyền cho các thành quả sáng tạo và chống cạnh tranh không lành mạnh là động lực thúc đẩy hoạt động đổi mới sáng tạo và phổ biến sản phẩm sáng tạo. Qua đó, làm giàu tài sản trí tuệ - một nguồn tài nguyên tạo nên nội lực quốc gia phục vụ trực tiếp cho sự phát triển bền vững.
Bộ trưởng Bộ KH&CN Chu Ngọc Anh phát biểu Tọa đàm.
Tuy nhiên, theo Bộ trưởng Chu Ngọc Anh, hệ thống SHTT chưa tiếp cận được với cách thức mới là một cấu phần quan trọng trong hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia. Đóng góp của SHTT vào sự phát triển KT-XH của đất nước còn có hạn chế nhất định.
Mặc dù số lượng sáng chế, nhãn hiệu, kiểu dáng công nghiệp, giống cây trồng, các tác phẩm văn học - nghệ thuật của Việt Nam được tạo ra và được bảo hộ không ngừng gia tăng, nhưng số lượng tài sản trí tuệ có giá trị cao, có khả năng cạnh tranh quốc tế của Việt Nam không nhiều, ít sản phẩm có giá trị cao, có khả năng cạnh tranh trong khu vực cũng như toàn cầu.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến hạn chế này, trong đó nguyên nhân nổi bật là chưa gắn kết được một cách chặt chẽ vấn đề sở hữu trí tuệ trong các chính sách, hoạt động của các ngành, lĩnh vực KT-XH. Kinh nghiệm của một số quốc gia cho thấy, nội dung sở hữu trí tuệ luôn là một bộ phận không thể thiếu trong chính sách phát triển các ngành KT-XH, từ công nghiệp, nông nghiệp, văn hóa đến y tế, giáo dục, môi trường…
Để khắc phục được hạn chế nêu trên và đặc biệt từ yêu cầu phát triển KT-XH trong điều kiện mới đặt ra yêu cầu phải xây dựng Chiến lược sở hữu trí tuệ quốc gia nhằm xây dựng các quan điểm, định hướng, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp để bảo đảm sở hữu trí tuệ thực sự trở thành công cụ đóng góp vào các mục tiêu phát triển ngành, lĩnh vực, địa phương và cả quốc gia.
Cần có chính sách hỗ trợ, tạo ra nhu cầu tự thân của doanh nghiệp trong việc nâng cao năng lực tiếp thu, ứng dụng và đổi mới công nghệ, cao hơn là khả năng nghiên cứu để phát triển các sản phẩm phù hợp với yêu cầu của thị trường.
Nhà nước cũng có vai trò quan trọng trong việc tạo lập và phát triển các định chế trung gian, các chính sách kinh tế, thị trường cùng với đó là các thiết chế tài chính Quỹ KH&CN của doanh nghiệp, Quỹ đổi mới công nghệ quốc gia, các quỹ đầu tư mạo hiểm có vai trò thúc đẩy mạnh mẽ…
“Muốn làm được như vậy, phải có sự tham gia, chung tay của các chủ thể trong hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia. Trong đó các cơ quan quản lý nhà nước ở Trung ương và địa phương có vai trò quan trọng trong khi hoạch định các chính sách phát triển KT-XH phải đựa trên khoa học công nghệ và phải có mục tiêu hỗ trợ, tạo mối liên kết nhằm thúc đẩy hoạt động đổi mới sáng tạo trong các viện nghiên cứu, trường đại học và các doanh nghiệp”, Bộ trưởng Chu Ngọc Anh khẳng định.
Trong phần báo cáo của mình, ông Andrew Ong, Phụ trách Văn phòng khu vực châu Á Thái Bình Dương – Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO)cho rằng, Việt Nam đã có sự tiến bộ rõ rệt. Đặc biệt, những tiến bộ trong đổi mới sáng tạo, minh chứng là hệ sinh thái đổi mới sáng tạo của Việt Nam đang đi cao hơn so với các nước trung bình, đây là điểm xuất phát tốt cho Việt Nam.
Báo cáo về chỉ số đổi mới sáng tạo năm qua cũng cho thấy, Việt Nam đứng thứ 45/127 quốc gia và nền kinh tế về lĩnh vực đổi mới sáng tạo, đây cũng là cơ hội tốt, là điểm hướng tới gia tăng thứ bậc cho Việt Nam trong năm nay.
Ông Andrew Ong, Phụ trách Văn phòng khu vực châu Á Thái Bình Dương – Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO)
Bên cạnh những mặt đạt được, ông Andrew Ong cũng lưu ý đến việc Việt Nam cần phải cải thiện vấn đề về thể chế, nhân lực, cơ sở hạ tầng đồng bộ. Tăng trưởng bền vững cần liên kết tất cả các nguồn lực, đặc biệt là thúc đẩy sự sáng tạo năng động trong khu vực tư nhân. Chú trọng hơn nữa đến các viện/trường để có những nghiên cứu và công nghệ phù hợp hơn, gia tăng số lượng đơn đăng ký của người Việt Nam so với nước ngoài.
“Chiến lược phát triển KT-XH và Chiến lược phát triển KH&CN cần kết nối với Chiến lược sở hữu trí tuệ. Sử dụng và tận dụng triệt để sở hữu trí tuệ, đó là cách các quốc gia phát triển đang áp dụng. Sở hữu trí tuệ không phục vụ cho Nhà nước, thể chế mà cho doanh nghiệp, nếu không có doanh nghiệp thì Sở hữu trí tuệ không tồn tại”, ông Andrew Ong bày tỏ.
Đồng quan điểm, ông Ian Heath, chuyên gia tư vấn của WIPO đã lấy hình ảnh kiềng 3 chân để chỉ ra 3 trụ cột vững chắc để thúc đẩy năng lực đổi mới sáng tạo của Việt Nam là: tiền bạc, nghiên cứu và phát triển, đào tạo. Để thế kiềng 3 chân vững chắc cần có vai trò điều phối của Chính phủ trong cải thiện Chiến lược SHTT Việt Nam.
Ông Ian Heath cũng gợi ý 4 vấn đề trong Chiến lược để biến thành công cụ phát triển: cần xây dựng cơ chế tham vấn mạnh mẽ giữa các bên liên quan; đảm bảo hệ thống luật pháp ổn định, thường xuyên rà soát cập nhất với tình hình hiện tại; có chương trình hỗ trợ khối tư nhân, bởi không thể có hệ thống SHTT tốt khi không có sự tham gia của khối này. Cuối cùng khâu quan trọng nhất là điều phối giữa các bên liên quan, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam để đảm bảo tốt thực hiện Chiến lược SHTT quốc gia.
Thứ trưởng Phạm Công Tạc phát biểu kết luận.
Trong thời gian tới, để xây dưng dự thảo Chiến lược SHTT quốc gia, Bộ KH&CN đã thành lập Ban soạn thảo và Tổ biên tập với sự tham gia tích cực của các thành viên đến từ các Bộ, ngành hữu quan và nhận được sự hỗ trợ, tham gia, tư vấn của các chuyên gia trong nước và quốc tế, đặc biệt là chuyên gia đến từ WIPO. Bộ cũng đã tiến hành các hoạt động nghiên cứu, khảo sát và phân tích thực trạng của hệ thống SHTT trên cơ sở tham khảo phương pháp xây dựng chiến lược SHTT của WIPO.
Vui lòng nhập nội dung bình luận.