Tham vọng sở hữu tàu sân bay “lai” tàu ngầm của Nhật Bản (Kỳ 1): Vũ khí cực độc
Tham vọng sở hữu tàu sân bay “lai” tàu ngầm của Nhật Bản (Kỳ 1): Vũ khí cực độc
Thứ sáu, ngày 28/08/2020 18:32 PM (GMT+7)
Khi Chiến tranh Thế giới thứ hai kết thúc, một loạt các loại vũ khí cực độc của các nước phe phát xít được quân Đồng Minh tìm thấy trong đó có cả tàu ngầm "lai" hàng không mẫu hạm lớn nhất lịch sử của Hải quân Đế quốc Nhật Bản.
Trên đường tiến về Nhật Bản vào cuối tháng 8/1945, Trung úy Chỉ huy Stephen L. Johnson có vấn đề rất lớn khi đang di chuyển trên tàu ngầm lớp Balao mang tên USS Segundo (SS-398) của anh ta. Trước mặt Johnson và thuỷ thủ đoàn của mình là một tàu ngầm lớn chưa từng thấy.
Chiến tranh thế giới thứ hai ở Thái Bình Dương vừa kết thúc, và các văn kiện hoà bình chính thức được ký vào ngày 2/9/1945, trên tàu chiến USS Missouri ở Vịnh Tokyo.
Khi Johnson tiếp cận được với con tàu khổng lồ kia, anh nhận ra đó là một chiếc tàu ngầm khổng lồ. Người Mỹ không có loại tàu ngầm nào với kích thước như vậy, vì vậy anh nhận ra rằng đó phải là tàu ngầm của Nhật Bản.
Đây là nhiệm vụ đầu tiên cho chỉ huy 29 tuổi. Ông và thuỷ thủ của mình phải đối mặt với tàu ngầm lớn nhất và có lẽ là tiên tiến nhất trên thế giới. Tàu I-401 của Nhật Bản dài hơn một sân bóng đá và có lượng giãn nước bề mặt là 5.233 tấn. Tuy nhiên, điều đáng lo ngại hơn là vũ khí chiến đấu của nó gồm một khẩu pháo 140mm trên boong phía sau, ba khẩu pháo phòng không 25mm cùng với tám ống phóng ngư lôi cỡ lớn ở mũi tàu.
Tàu ngầm cỡ lớn này treo cờ đầu hàng đen theo quy ước, nhưng khi Segundo tiến về phía trước, tàu ngầm Nhật Bản lại di chuyển nhanh vào màn đêm. Tàu của Johnson theo đuổi chiếc tàu ngầm đối phương nhưng không khai hoả và cuối cùng tàu ngầm lớn nhất thế giới thời bấy giờ đã chịu chậm lại khi bình minh đến gần.
Johnson và thuỷ thủ đoàn của anh ta đã nhận được sự cho phép để đánh chìm con tàu bất đắc dĩ của Nhật Bản nếu cần thiết, nhưng anh ta nhận ra rằng đây sẽ là một chiến lợi phẩm cực kỳ đắt đỏ và muốn mang nó về nước. Điều này là cực kỳ liều lĩnh vì điều đó có nghĩa những người Nhật sẽ tiếp tục vận hành con tàu này và họ có thể "đổi ý", không đầu hàng nữa bất cứ lúc nào.
Johnson cùng thuỷ thủ đoàn của mình cũng không biết rằng trên chiếc tàu ngầm khổng lồ này là chỉ huy Tatsunosuke Ariizumi, nhà phát triển tàu ngầm bí mật được thiết kế để tấn công Mỹ bằng hàng loạt các cuộc tấn công bất ngờ. Ariizumi được coi là cha đẻ của dòng tàu ngầm I-400 và là người có nhiều năm phục vụ trong Hải quân Đế quốc Nhật Bản, vì vậy đầu hàng là một sự ô nhục mà anh ta không thể chịu đựng được.
Johnson cũng đã phải tranh luận với Trung úy Nobukiyo Nambu, thuyền trưởng của I-401. Trung uý Nambu từng tham gia tấn công Trân Châu Cảng và bây giờ ông chỉ huy tàu ngầm lớn nhất thế giới được thiết kế để mang theo ba máy bay tấn công tối tân trong một móc treo được chế tạo đặc biệt đặt trên tàu. Những chiếc máy bay Aichi M6A1 bí mật này ban đầu được thiết kế cho một trận Trân Châu Cảng thứ hai hoặc một cuộc tấn công bất ngờ khác, thậm chí có thể oanh tạc vào thành phố New York hoặc Washington, D.C. Các tàu ngầm thuộc dòng I-400 đều mang trong mình những công nghệ cực kỳ bất ngờ. Họ có khả năng thực hiện hành trình vòng quanh thế giới lần một năm rưỡi mà không cần tiếp nhiên liệu, có tốc độ bề mặt trên 19 hải lý (tương đương gần 38 km một giờ), và có thể duy trì tuần tra bốn tháng, gấp đôi thời gian của lớp tàu ngầm Segundo.
Cả Nambu và Chỉ huy Ariizumi đều không chấp nhận tuyên bố đầu hàng của Nhật hoàng Hirohito khi nó được phát sóng vào ngày 15/8. Các thông cáo tiếp theo từ Tokyo rất khó hiểu, đặc biệt là "Lệnh 114", đã xác nhận rằng hòa bình đã được tuyên bố nhưng tất cả các tàu ngầm đều thực hiện các nhiệm vụ được xác định trước và phải tấn công kẻ thù nếu bị phát hiện.
Đô đốc Isoroku Yamamoto, chỉ huy Hạm đội Hải quân Nhật Bản và là tác giả của cuộc tấn công Trân Châu Cảng, người đã kêu gọi xây dựng hàng loạt các tàu ngầm I-400 chỉ khoảng ba tuần sau Trân Châu Cảng. Yamamoto sau đó đã thiệt mạng khi máy bay của ông bị tiêm kích Mỹ bắn hạ.
Mặc dù từng tới Mỹ và đã tận mắt chứng kiến sức mạnh công nghiệp kinh hoàng của đất nước này, Yamamoto vẫn tin rằng một khi Nhật Bản lôi Mỹ vào cuộc chiến, các tàu sân bay của Nhật sẽ thả bom như mưa trên các thành phố lớn của Mỹ và chắc chắn sẽ khiến người dân Mỹ mất ý chí chiến đấu.
Người Nhật đã có kinh nghiệm trước đây với các tàu ngầm mang máy bay, nhưng đây là những chiếc thuỷ phi cơ được sử dụng chủ yếu để trinh sát. Các thuỷ phi cơ này có thể dễ dàng bị các máy bay chiến đấu của Mỹ loại khỏi cuộc chiến và mỗi chiếc tàu ngầm chỉ mang theo một chiếc máy bay, chắc chắn không đủ để oanh tạc nước Mỹ. Yamamoto với tầm nhìn vĩ đại đã yêu cầu một chiếc tàu ngầm có thể đi được 40.000 hải lý mà không cần tiếp nhiên liệu, hoặc gần gấp bốn lần tầm hoạt động của một tàu ngầm lớp Balao như Segundo.
Bên cạnh đó, tàu ngầm lớp I-400 sẽ mang theo được 1.750 tấn nhiên liệu, thực phẩm trong bốn tháng trên biển cho thủy thủ đoàn của 147-157 người, kèm theo hai máy bay tấn công với tốc độ tối đa 500 km/h và tầm bay khoảng 1000 km . Nhà chứa máy bay trên sàn tàu ngầm cần dài ít nhất 30 mét để chứa hai máy bay và đủ mạnh để chịu được áp lực lớn khi các tàu ngầm này phải lặn sâu để lẩn tránh máy bay địch phản công.
Các tàu ngầm lớp I-400 của Yamamoto có độ giãn nước khoảng 6.560 tấn khi lặn, gấp khoảng ba lần lượng tàu ngầm lớn nhất của Mỹ thời kỳ đó, và sẽ dài hơn 120m, khiến chúng có kích thước tương đương một tàu tuần dương nhỏ và được Nhật gọi là "Tàu sân bay biết lặn".
Yamamoto kêu gọi xây dựng 18 chiếc tàu ngầm khổng lồ mang theo tổng cộng 36 máy bay tấn công. Kế hoạch đã được gấp rút thông qua vào tháng 6/1942, với việc xây dựng năm tàu ngầm đầu tiên bắt đầu vào tháng 1/1943. Tên của lớp tàu ngầm đặc biệt được viết tắt là Sen-toku.
Các máy bay tấn công phải được thiết kế lại từ đầu. Các yếu tố cần thiết nhất giờ đây là tốc độ, tầm bắn và tải trọng. Đôi cánh phải có thể gập lại để máy bay có thể gấp lại gọn gàng trong các ống chống nước trên tàu - hay nhà chứa máy bay. Công việc thiết kế, thử nghiệm và chế tạo máy bay đã được giao cho Công ty Máy bay Aichi.
Để tối đa hóa phạm vi và tốc độ, máy bay được giảm trọng lượng hết cỡ. Mỗi chiếc máy bay đều có một phi công oanh tạc cơ ở phía trước và ba xạ thủ súng máy phía sau. Các kế hoạch ban đầu yêu cầu một súng máy 7,7mm cố định, mặt trước và súng máy Type 2 13mm phía sau với dây đạn 300 viên.
Sau thất bại tại Midway vào đầu tháng 6/1942, Nhật Bản đã tập trung hơn vào việc bảo vệ nội địa Nhật Bản và ít có suy nghĩ về một cuộc tấn công nhắm vào lục địa Mỹ bằng cách sử dụng loại tàu ngầm này. Cái chết của Yamamoto vào giữa tháng 4/1943, chỉ vài tuần sau sinh nhật lần thứ 59 của ông, đã gần như đánh dấu chấm hết cho dự án tàu ngầm này. Số lượng tàu ngầm đóng theo lớp I-400 bị cắt giảm ngay lập tức sau cái chết của Đô đốc Yamamoto.
Quan trọng không kém, các quan chức hải quân Nhật Bản nhận ra rằng với sự mất mát của Guadalcanal, vành đai phòng thủ của quốc gia có nguy cơ rất cao. New York và Washington đã không còn là mục tiêu mang tính chiến lược quan trọng mà khi đó mục tiêu tối thượng của Nhật là tấn công Kênh đào Panama. Một cuộc tấn công thành công vào kênh đào sẽ bóp nghẹt cỗ máy chiến tranh của Mỹ ở Thái Bình Dương và giúp người Nhật có đủ thời gian để củng cố lại hàng rào phòng thủ trên biển của mình.
Vui lòng nhập nội dung bình luận.