Dịch Leptospirosis
Khi những người châu Âu đầu tiên đặt chân lên lãnh thổ New England, trước mắt họ là một bức tranh khủng khiếp - nhiều khu định cư hoang tàn, trống rỗng với hài cốt của hàng ngàn người. Về sau, mới vỡ lẽ, đấy là hậu quả của một dịch bệnh. Ở Massachusetts và Rhode Island ngày nay, vào thời kỳ đó, các bộ lạc Vampanoag đang sinh sống. Theo một số ước tính, đến đầu thế kỷ 17, dân số của họ hơn 20.000 người.
Tuy nhiên, từ 1616 đến 1619, một số căn bệnh bí ẩn đã tàn phá các vùng lãnh thổ ven biển này. Các báo cáo thời đó mô tả các triệu chứng của bệnh gồm vàng da, sốt, chảy máu mũi và tổn thương da. Các ước tính khác nhau cho thấy, dịch bệnh đã giết chết từ 30-90% thổ dân. Sau đó, lý do cái chết của thổ dân được quy do bệnh đậu mùa, cúm và sốt vàng da. Nhưng không có bệnh nào trong số này có tất cả các triệu chứng được mô tả - điều dẫn các nhà dịch tễ học đến một nghi phạm hiếm gặp - bệnh leptospirosis, gây ra bởi một loại vi khuẩn có hình xoắn ốc, sống bên trong động vật, thường là loài gặm nhấm và lây lan qua nước tiểu.
Dịch bệnh xuất hiện tại nhiều nơi trên thế giới; Nguồn: livejournal.com
Một nghiên cứu năm 2010 đã ghi nhận, các triệu chứng của một bệnh dịch tấn công thổ dân Vampanoagi tương tự như sự bùng phát bệnh leptospirosis gần đây ở Nhật Bản và Châu Âu. Thổ dân có một số thói quen, ví dụ, đi chân trần và tắm trong các hồ chứa tự nhiên - điều không phải là đặc trưng của người châu Âu thời đó - vì vậy, họ có thể bị nhiễm vi khuẩn từ trong đất hoặc nước. Tuy nhiên, vẫn chưa thể chắc chắn rằng đó chính xác là bệnh leptospirosis. Hài cốt người chết vào đầu thế kỷ 17 nhiều, nhưng trong thời đại chúng ta gần như không thể tìm thấy chúng. Tại khu vực này của hành tinh, đất chua và mọi thứ hòa tan quá nhanh.
Vì vậy, các nhà nghiên cứu không thể làm một xét nghiệm DNA (một phân tử di truyền) để xác định leptospirosis. Một số nhà khoa học nghi ngờ vi khuẩn gây bệnh leptospirosis có thể chịu được mùa đông khắc nghiệt ở New England. Điều này rất quan trọng nếu vì hậu quả của sự nóng lên của khí hậu, bệnh leptospirosis và các bệnh nhiệt đới khác có thể lan lên phía bắc, nơi trước đây chỉ có sương giá. Vì vậy, phải tiếp tục tìm kiếm bằng chứng mới.
Dịch Colocisli
Thế kỷ 16 là thế kỷ thảm họa đối với người da đen sống ở Mexico ngày nay, không chỉ do người châu Âu và bệnh đậu mùa do họ mang đến, mà còn có ít nhất ba vụ dịch lớn của một căn bệnh bí ẩn đã đi vào lịch sử với tên gọi là colocisli. Theo ngôn ngữ Nahuatl, từ colocisli có nghĩa là "dịch hại". Vụ dịch tàn khốc nhất của xảy ra vào năm 1545 và chỉ trong ba năm, nó đã cướp đi sinh mạng của 15 triệu người, tương đương khoảng 80% dân số bản địa. Đến cuối thế kỷ, số người da đen đã giảm từ 25 triệu xuống còn một triệu người. Các hồ sơ của bác sĩ Tây Ban Nha thời bấy giờ ghi lại một loạt các triệu chứng khủng khiếp: sốt, co thắt ruột, lưỡi đen và nước tiểu đen. Người bị nhiễm bệnh thường chết trong vòng ba - bốn ngày.
Trong một nghiên cứu năm 2002, các nhà khoa học đã so sánh các triệu chứng này với các triệu chứng gây ra bởi sốt xuất huyết hantavirus. Do phần lớn colocisli xuất hiện ở khu vực miền núi chứ không phải trên bờ biển - nơi thực dân Tây Ban Nha đổ bộ, các nhà nghiên cứu cho rằng mầm bệnh có nguồn gốc địa phương và không được du nhập từ bên ngoài.
Dịch bệnh được cho đã xóa sổ một số chủng tộc da màu; Nguồn: livejournal.com
Tuy nhiên, vào năm 2018, một phân tích từ tủy răng của 24 thi thể từ một nghĩa trang ở Mexico trong trận dịch đầu tiên của căn bệnh này đã được thực hiện và các nhà khoa học đã tìm thấy DNA của một chủng Salmonella gây ra bệnh phó thương hàn. Ngày nay, trên thế giới, hơn 200.000 người chết vì sốt phó thương hàn và sốt thương hàn mỗi năm. Một dạng salmonella tương tự đã được tìm thấy trong phần còn lại của những người châu Âu đầu tiên sống ở Na Uy, do đó, các học giả cho rằng colocisli được gây ra do mầm bệnh du nhập.
Một số đồng nghiệp của họ lưu ý rằng các triệu chứng của bệnh không giống với triệu chứng do salmonella gây ra. Ngoài ra, phương pháp được sử dụng để phát hiện vi khuẩn không thể xác định được RNA (một phân tử di truyền khác) của virus hantavirus. Chỉ có thể tìm thấy những mầm bệnh trong đó DNA được giải trình tự và nhập vào cơ sở dữ liệu toàn cầu. Vì vậy, rất có thể, nhóm các nhà nghiên cứu trên đã tìm thấy một chủng salmonella không liên quan đến bệnh colocisli, hoặc đó chỉ là một trong những yếu tố của dịch bệnh; thủ phạm thực vẫn chưa bị đưa ra ánh sáng.
Dịch Justinian
Năm 541, dưới triều đại của Justinian I, một điều khủng khiếp đã xảy ra ở thủ đô Constantinople của đế chế này. Cư dân bắt đầu bị ảo tưởng, sốt, sưng ở háng và nách. Tỷ lệ tử vong rất cao, trong thành phố, 5-10 nghìn người chết mỗi ngày. Đó không phải là ổ dịch cục bộ, bệnh lây lan sang các nước láng giềng của lưu vực Địa Trung Hải, biến thành đại dịch toàn cục. Dịch được gọi "dịch Justinian", theo nhiều ước tính, giết chết từ 25 - 50 triệu người, trở thành một trong những nạn dịch nguy hiểm nhất trong lịch sử loài người.
Nhờ phân tích DNA, các nhà khoa học đã phán đoán về mầm bệnh của nó - dịch hạch. Trong một nghiên cứu được thực hiện vào năm 2013, các nhà khoa học đã phân tích DNA hài cốt của hai người sống trong thời Justinian trên lãnh thổ nước Đức hiện đại. Đặc trưng di truyền của trực khuẩn dịch hạch - loại vi khuẩn gây ra đại dịch, được biết đến trong lịch sử dưới tên "cái chết đen" - đã được phát hiện.
Triệu chứng trên các người bệnh rất khác nhau; Nguồn: livejournal.com
Nhưng đó không hẳn là chủng khuẩn từng tàn phá Châu Âu vào thế kỷ 14. Chúng là hai chủng vi khuẩn khác nhau, và có chủng thứ ba giết chết hàng triệu người trong thế kỷ 19 và 20. Một loạt các đại dịch khủng khiếp này đã cho các nhà dịch tễ học thấy, chúng chưa bao giờ kém nguy hiểm. Vi khuẩn này được lưu giữ trong bọ chét sống trên chuột và quần thể của loài gặm nhấm, có thể đóng vai trò là kho mầm bệnh dịch hạch trong một thời gian rất dài.
Một khi chúng chưa bị tiêu diệt, luôn có khả năng gây ra dịch bệnh mới giết người hàng loạt. Các nhà khoa học nhận thấy, dịch bệnh thời cổ đại có một số mô hình mang tính quy luật của vi khuẩn, ví dụ, ba đại dịch chính xảy ra trong những tháng và năm mưa bất thường. Họ cũng phát hiện ra rằng, các chủng vi khuẩn cổ đại bị đột biến gien có thể liên quan trực tiếp đến mức độ nguy hiểm của chúng.
Dịch Antoninov
Vào năm 165, các quân đoàn lê dương La Mã trở về từ Mesopotamia đã mang về nhà không chỉ các chiến lợi phẩm, mà còn mầm bệnh gây ra một dịch bệnh đi vào lịch sử với cái tên dịch hạch Antoninov. Một bác sĩ Hy Lạp mô tả các triệu chứng của bệnh này gồm sốt, phân có máu, phát ban, phồng rộp và loét da. Đại dịch lan sang các vùng của Châu Âu, Châu Á và Bắc Phi, giết chết tổng số 10 triệu người.
Do quá lâu, các mẫu DNA giúp xác định mầm bệnh đã không được tìm thấy, vì vậy, các nhà nghiên cứu buộc phải bắt đầu từ các mô tả không chi tiết của vị bác sĩ Hy Lạp. Bệnh gây tử vong kèm theo phát ban da thường là sởi hoặc đậu mùa. Các nhà khoa học loại trừ sởi, vì từ năm 2010, người ta phát hiện ra rằng căn bệnh này xuất hiện tương đối gần đây. Các nhà khoa học đã so sánh virus sởi với một trong những họ hàng gần nhất của nó - virus gây bệnh dịch hạch gia súc.
Dịch bệnh đã cướp đi một số lượng lớn sinh mạng con người; Nguồn: livejournal.com
Hóa ra cả hai vi khuẩn được tách ra từ tổ tiên chung của chúng không sớm hơn thế kỷ 11 hoặc 12 sau Công nguyên, nghĩa là bệnh sởi còn quá trẻ để trở thành nguyên nhân của bệnh dịch hạch Antoninov. Bệnh đậu mùa, với mô tả có loét và phát ban, vì vậy đang là nghi vấn chính. Điều quan trọng là xác định chính xác căn bệnh nào gây ra đại dịch này khi nó thực sự đã xóa sổ một trong những đế chế hùng mạnh nhất trong lịch sử nhân loại.
Người ta tin rằng tỷ lệ tử vong trong hàng ngũ của quân đội La Mã không dưới 15%. Một số nhà sử học cho rằng, thảm họa này kéo theo sự suy giảm kinh tế nghiêm trọng. Và nếu đó là bệnh đậu mùa, thì chúng ta có lý do để vui mừng, vì ngày nay căn bệnh đậu mùa đã bị khống chế bởi một chương trình toàn cầu, được thực hiện vào những năm 60-70 của thế kỷ trước.
Dịch Athens
Một trong những dịch bệnh lâu đời nhất được các nhà sử học biết đến đã tấn công Athens vào mùa hè năm 430 trước Công nguyên. Theo các bằng chứng, nó bắt đầu ở Châu Phi, nhưng hậu quả mà nó gây ra ở Hy Lạp đã ấn định cái tên mà cuối cùng nó được nhận - bệnh dịch Athen. Nguồn tư liệu duy nhất về nó có thể được tìm thấy trong các công trình của nhà sử học Hy Lạp Thucydides, theo đó, bệnh nhân bị sốt, mắt đỏ ngầu, lưỡi và cổ họng bị loét gây chảy máu...
Trong 5 năm tiếp theo, ở Athens có tới 100.000 người (khoảng 25% dân số) chết vì căn bệnh này. Thucydides cũng mô tả triệu chứng phụ của dịch bệnh - sợ hãi, hoảng loạn và hỗn loạn. Năm 2015, một nhóm các nhà khoa học cho rằng, các triệu chứng được mô tả giống với sốt xuất huyết Ebola nhất, nhưng rất khó để xác định rõ ràng căn bệnh này. Không có DNA, vì vậy người ta phải tìm RNA, tuy nhiên, nó phân rã nhanh hơn nhiều, việc tìm thấy nó trong các mẫu lâu đời là vô cùng khó khăn.
Thủ phạm của nhiều dịch bệnh đến nay vẫn chưa bị lôi ra ánh sáng; Nguồn: livejournal.com
Tuy nhiên, các kỹ thuật trong lĩnh vực này liên tục được cải tiến và có khả năng trong tương lai gần, các nhà khoa học sẽ có thể tìm thấy RNA trong các mẫu Hy Lạp cổ đại. Cách đây không lâu, ít người tin rằng dấu vết của virus có thể được tìm thấy vẫn còn tồn tại hơn vài trăm năm, nhưng năm 2018, các nhà khoa học đã có thể xác định DNA virus viêm gan B trong một mẫu có 4.500 năm tuổi. RNA của virus được phân lập trong lõi băng có hàng ngàn, thậm chí hàng trăm nghìn năm tuổi.
Dịch thời kỳ đồ đá
Nạn dịch này bí ẩn đến nỗi các nhà khoa học thậm chí không chắc trong thực nó tế là gì. Hàng ngàn năm trước, nông nghiệp bắt đầu lan rộng khắp Châu Âu và Châu Á, dẫn đến sự gia tăng dân số và xuất hiện của các nền văn minh mới. Các khu định cư lớn hình thành ở những nơi bất ngờ như lãnh thổ của Romania và Ukraine ngày nay, với hơn 10.000 người, mà vào thời điểm đó được coi là siêu đô thị.
Tuy nhiên, vào thiên niên kỷ thứ tư - thứ ba trước Công nguyên, nền văn minh tự nhiên biến mất. Những thành phố mới không hình thành, và những thành phố cũ bị bỏ hoang. Thời kỳ này đôi khi được gọi là thời kỳ suy giảm đồ đá, vì dân số Châu Âu giảm mạnh. Không ai biết tại sao điều đó xảy ra. Theo một thuyết phổ biến, nhân số tăng quá nhanh và, khi phá hủy tài nguyên thiên nhiên trong môi trường sống, họ bắt đầu tự chết. Cũng có thể đây là kết quả của các cuộc chiến giữa các tộc người khác nhau. Giả thuyết thứ ba cho là do một dịch bệnh quy mô lớn - điều giải thích tại sao các "thành phố" bị bỏ hoang.
Việc nghiên cứu các dịch bệnh có ý nghĩa lý thuyết và thực tiễn lớn; Nguồn: livejournal.com
Một nghiên cứu được công bố vào năm 2018 đã đưa ra bằng chứng đầu tiên ủng hộ giả thiết này. Phân tích DNA của hai người được tìm thấy trong một ngôi mộ chung ở Thụy Điển, niên đại từ khoảng 3.000 trước Công nguyên cho thấy, dấu vết liên quan đến chủng khuẩn bệnh dịch hạch - chủng bệnh lâu đời nhất được biết đến, đồng thời xác nhận, căn bệnh chết người này đã đồng hành cùng loài người trong suốt lịch sử tồn tại. Các thành phố đông dân là môi trường lý tưởng cho sự xuất hiện và lây lan của dịch bệnh. Tuy nhiên, để được thuyết phục về điều này, cần có thêm bằng chứng xác thực chính nó đã gây ra sự sụt giảm mạnh về dân số tại thời điểm này trên hành tinh, nghĩa là cần phải tìm nơi chôn cất của họ thời đó.
Nghiên cứu lịch sử các dịch bệnh gây chết người có thể gây sợ hải đối với những người bị ám ảnh bởi dịch bệnh, nhưng là cần thiết, bởi vì mỗi dịch bệnh là một cơ hội để xác định các yếu tố di truyền, môi trường hoặc văn hóa tạo điều kiện cho các dịch bệnh nguy hiểm phát sinh và lây lan. Bằng cách nghiên cứu các dịch bệnh trong quá khứ, con người có thể học cách dự đoán và ngăn ngừa dịch bệnh trong tương lai - điều luôn có ý nghĩa cả về lý thuyết lẫn thực tiễn.
Vui lòng nhập nội dung bình luận.